GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ TỈNH YÊN BÁI
Điều kiện địa lý tự nhiên
1. Vị trí địa lý
Yên
Bái là tỉnh miền núi nằm sâu trong nội địa, là 1 trong 13 tỉnh vùng núi
phía Bắc, nằm giữa 2 vùng Đông Bắc và Tây Bắc. Phía Bắc giáp tỉnh Lào
Cai, phía Nam giáp tỉnh Phú Thọ, phía Đông giáp 2 tỉnh Hà Giang, Tuyên
Quang và phía Tây giáp tỉnh Sơn La. Yên Bái có 9 đơn vị hành chính (1
thành phố, 1 thị xã và 7 huyện) với tổng số 180 xã, phường, thị trấn
(159 xã và 21 phường, thị trấn); trong đó có 70 xã vùng cao và 62 xã đặc
biệt khó khăn được đầu tư theo các chương trình phát triển kinh tế - xã
hội của Nhà nước, có 2 huyện vùng cao Trạm Tấu, Mù Cang Chải (đồng bào
Mông chiếm trên 80%) nằm trong 61 huyện nghèo, đặc biệt khó khăn của cả
nước.. Yên Bái là đầu mối và trung độ của các tuyến giao thông đường bộ,
đường sắt, đường thuỷ từ Hải Phòng, Hà Nội lên cửa khẩu Lào Cai, là một
lợi thế trong việc giao lưu với các tỉnh bạn, với các thị trường lớn
trong và ngoài nước.
2. Đặc điểm địa hình
Yên Bái nằm ở vùng núi phía Bắc, có đặc điểm địa hình cao dần từ Đông
Nam lên Tây Bắc và được kiến tạo bởi 3 dãy núi lớn đều có hướng chạy Tây
Bắc – Đông Nam: phía Tây có dãy Hoàng Liên Sơn – Pú Luông nằm kẹp giữa
sông Hồng và sông Đà, tiếp đến là dãy núi cổ Con Voi nằm kẹp giữa sông
Hồng và sông Chảy, phía Đông có dãy núi đá vôi nằm kẹp giữa sông Chảy và
sông Lô. Địa hình khá phức tạp nhưng có thể chia thành 2 vùng lớn: vùng
cao và vùng thấp. Vùng cao có độ cao trung bình 600 m trở lên, chiếm
67,56% diện tích toàn tỉnh. Vùng này dân cư thưa thớt, có tiềm năng về
đất đai, lâm sản, khoáng sản, có khả năng huy động vào phát triển kinh
tế - xã hội. Vùng thấp có độ cao dưới 600 m, chủ yếu là địa hình đồi núi
thấp, thung lũng bồn địa, chiếm 32,44 % diện tích tự nhiên toàn tỉnh.
3. Khí hậu
Yên Bái nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình
là 22 - 230C; lượng mưa trung bình 1.500 – 2.200 mm/năm; độ ẩm trung
bình 83 – 87%, thuận lợi cho việc phát triển nông – lâm nghiệp. Dựa trên
yếu tố địa hình khí hậu, có thể chia Yên Bái thành 5 tiểu vùng khí hậu.
Tiểu vùng Mù Cang Chải với độ cao trung bình 900 m, nhiệt độ trung bình
18 – 200C, có khi xuống dưới 00C về mùa đông, thích hợp phát triển các
loại động, thực vật vùng ôn đới. Tiểu vùng Văn Chấn – nam Văn Chấn, độ
cao trung bình 800 m, nhiệt độ trung bình 18 – 200C, phía Bắc là tiểu
vùng mưa nhiều, phía Nam là vùng mưa ít nhất tỉnh, thích hợp phát triển
các loại động, thực vật á nhiệt đới, ôn đới. Tiểu vùng Văn Chấn – Tú Lệ,
độ cao trung bình 200 – 400 m, nhiệt độ trung bình 21 – 320C, thích hợp
phát triển các loại cây lương thực, thực phẩm, chè vùng thấp, vùng cao,
cây ăn quả và cây lâm nghiệp. Tiểu vùng nam Trấn Yên, Văn Yên, thành
phố Yên Bái, Ba Khe, độ cao trung bình 70 m, nhiệt độ trung bình 23 –
240C, là vùng mưa phùn nhiều nhất tỉnh, có điều kiện phát triển cây
lương thực, thực phẩm, cây công nghiệp, lâm nghiệp, cây ăn quả. Tiểu
vùng Lục Yên – Yên Bình độ cao trung bình dưới 300 m, nhiệt độ trung
bình 20 – 230C, là vùng có mặt nước nhiều nhất tỉnh, có hồ Thác Bà rộng
19.050 ha, có điều kiện phát triển cây lương thực, thực phẩm, lâm nghiệp
và nuôi trồng thuỷ sản, có tiềm năng du lịch.
II. Tài nguyên thiên nhiên
1. Tài nguyên đất
Theo
số liệu thống kê năm 2010, Tổng diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh là
688.627,64 ha. Trong đó diện tích nhóm đất nông nghiệp là 583.717,47 ha,
chiếm 84,76% diện tích đất tự nhiên; diện tích nhóm đất phi nông nghiệp
là 51.713,13 ha chiếm 7,51%; diện tích đất chưa sử dụng là 53.197,04 ha
chiếm 7,73%.
Trong
tổng diện tích đất nông nghiệp thì đất sản xuất nông nghiệp là
107.317,69 ha; đất lâm nghiệp 474.768,01 ha; đất nuôi trồng thủy sản
1.574,35 ha, còn lại là đất nông nghiệp khác. Trong tổng diện tích đất
phi nông nghiệp thì đất ở 4.826,62 ha; đất chuyên dùng 13.837,31 ha, còn
lại là đất sử dụng vào mục đích khác. Trong tổng diện tích đất chưa sử
dụng thì đất bằng chưa sử dụng là 666,02 ha; đất đồi núi chưa sử dụng là
48.654,14 ha, còn lại là núi đá không có rừng cây.
Đất Yên Bái chủ yếu là đất xám (chiếm 82,37%), còn lại là đất mùn alít, đất phù sa, đất glây, đất đỏ…
2. Tài nguyên rừng
Năm
2010, diện tích đất có rừng toàn tỉnh Yên Bái đạt 406.230,8 ha, trong
đó: đất rừng tự nhiên 231.563,7ha, đất rừng trồng 174.667,1 ha; đạt độ
che phủ trên 58,4%.
Yên Bái có nhiều loại rừng khác nhau như: rừng nhiệt đới, á nhiệt đới,
và núi cao. Trong khu vực rừng á nhiệt đới của tỉnh có nhiều loại cây lá
kim (như: pơmu, thông nàng, thông tre lá lớn, sa mộc, sam mộc) xen lẫn
cây lá rộng thuộc họ sồi dẻ, đỗ quyên. Ở độ cao trên 2000m, rừng hỗn
giao giảm dần, pơmu mọc thành rừng kín cao tới 40-50m, đường kính thân
có cây tới 1,5m. Cao hơn nữa là những cánh rừng thông xen kẽ các tầng
cây bụi nhỏ rồi đến trúc lùn, cậy họ cói, cậy họ hoa hồng, cây họ thạch
nam, cây họ cúc, cây họ hoàng liên xen kẽ. Lùi dần về phía đông nam, độ
cao hạ dần, khí hậu ấm áp hơn làm cho lớp phủ thực vật rừng có điều kiện
phát triển. Bên cạnh các loại gỗ quý (nghiến, trúc, lát hoa, chò chỉ,
pơmu, cây thuốc quý (đẳng sâm, sơn tra, hò thủ ô, hoài sơn, sa nhân),
động vật hiếm (hổ, báo, cầy hương, lợn rừng, chó sói, sơn dương, gấu,
hươu, vượn, khỉ, trăn, tê tê, đàng đẵng, ếch dát, gà lôi, nộc cốc,
phượng hoàng đất) cùng nhiều khu rừng cho lâm, đặc sản (cọ, măng, song,
móc, nấm hương, mộc nhĩ, trẩu, quế, chè).
3. Tài nguyên khoáng sản
Tài nguyên khoáng sản Yên Bái khá đa dạng, hiện đã điều tra 257 điểm mỏ
khoáng sản, xếp vào các nhóm khoáng sản năng lượng, khoáng sản vật liệu
xây dựng, khoáng chất công nghiệp, khoáng sản kim loại và nhóm nước
khoáng. Nhóm khoáng sản năng lượng gồm các loại than nâu, than Antraxit,
đá chứa dầu, than bùn…; loại than nâu và than lửa dài tập trung ở ven
sông Hồng, sông Chảy và các thung lũng bồn địa như Phù Nham (Văn Chấn).
Nhóm khoáng sản vật liệu xây dựng gồm đá vôi, đá ốp lát, sét gạch ngói,
cát sỏi…được phân bố rộng rãi trên khắp địa bàn tỉnh. Nhóm khoáng chất
công nghiệp gồm đầy đủ các nguyên liệu công nghiệp từ nguyên liệu phân
bón, nguyên liệu hoá chất, nguyên liệu kỹ thuật, đặc biệt là đá quý và
bán đá quý được phân bố chủ yếu ở Lục Yên và Yên Bình. Nhóm khoáng sản
kim loại có đủ các loại từ kim loại đen (sắt) đến kim loại nâu (đồng,
chì, kẽm) và kim loại quý (vàng), đất hiếm phân bố chủ yếu ở hữu ngạn
sông Hồng. Nhóm nước khoáng được phân bố chủ yếu ở vùng phía tây của
tỉnh (Văn Chấn, Trạm Tấu), bước đầu được sử dụng tắm chữa bệnh.
II. Tiềm năng kinh tế
1. Những lĩnh vực kinh tế lợi thế
Yên
Bái có lợi thế để phát triển ngành nông – lâm sản gắn với vùng nguyên
liệu: trồng rừng và chế biến giấy, bột giấy, ván nhân tạo; trồng và chế
biến quế, chè, cà phê; trồng và chế biến sắn, hoa quả; nuôi trồng và chế
biến thuỷ sản. Với nguồn khoáng sản phong phú, tỉnh có điều kiện thuận
lợi trong việc khai thác và chế biến khoáng sản như: đá quý, cao lanh,
fenspat, bột cácbonnát canxi, sắt…và sản xuất vật liệu xây dựng: xi
măng, gạch, sứ kỹ thuật, sứ dân dụng, đá xẻ ốp lát, đá mỹ thuật và các
loại vật liệu xây dựng khác.
2. Tiềm năng du lịch
Yên
Bái là một tỉnh miền núi, phong cảnh thiên nhiên đa dạng và đẹp: hang
Thẩm Lé (Văn Chấn), động Xuân Long, động Thuỷ Tiên (Yên Bình), hồ Thác
Bà, du lịch sinh thái Suối Giàng, cánh đồng Mường Lò; di tích cách mạng,
đền thờ Nguyễn Thái Học, Căng Đồn, Nghĩa Lộ…Tỉnh Yên Bái có nhiều dân
tộc thiểu số và mỗi dân tộc mang đậm một bản sắc văn hoá riêng, là điều
kiện để kết hợp phát triển du lịch sinh thái
KHÍ HẬU
Đặc
trưng của khí hậu Yên Bái là nhiệt đới gió mùa, nắng và mưa nhiều, nền
nhiệt cao. Nhiệt độ trung bình ít biến động trong năm (khoảng 18-20oC), cao nhất 37-39oC, thấp nhất 2-4oC.
Gió thịnh hành là gió mùa đông bắc và gió mùa đông nam. Mưa nhiều nhưng
phân bố không đều, lượng mưa trung bình 1.800 – 2.000mm/năm, cao nhất
tới 2.204mm/năm và thấp nhất cũng đạt 1.106mm/năm. Một số vùng tiểu khí
hậu vào tiết xuân thường có mưa dầm triền miên.
Các mùa chính trong năm
Khí hậu Yên Bái có 2 mùa rõ rệt gồm:
- Mùa lạnh: từ tháng11 đến tháng 3 năm sau, vùng thấp lạnh kéo dài từ
115 -125 ngày, vùng cao mùa lạnh đến sớm và kết thúc muộn nên dài hơn
vùng thấp, vùng cao từ 1.500m trở lên hầu như không có mùa nóng, nhiệt
độ trung bình ổn định dưới 20oC, cá biệt có nơi xuống 0oC,
có sương muối, băng tuyết; thường bị hạn hán đầu mùa lạnh (tháng 12-
tháng 1), cuối mùa thường có mưa phùn, điển hình là khu vực thành phố
Yên Bái , Trấn Yên, Yên Bình.
- Mùa nóng: từ 4 đến tháng 10 là thời kỳ nóng ẩm, nhiệt độ trung bình ổn định trên 25o C, tháng nóng nhất 37- 380C,
mùa nóng cũng chính là mùa mưa nhiều, lượng mưa trung bình từ 1.500 –
2.200 mm/năm và thường kèm theo gió xoáy, mưa lũ gây ra lũ quét ngập
lụt. Sự phân bố ngày mưa, lượng mưa tùy thuộc vào địa hình theo hướng
giảm dần từ Đông sang Tây theo địa bàn tỉnh. Theo thung lũng sông Hồng
giảm dần từ Đông Nam lên Tây Bắc. Nhưng trong vùng thung lũng sông Chảy
lại giảm dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam.
Chế độ mưa
Yên
Bái thuộc vùng có lượng mưa trung bình, theo số liệu của khí tượng thủy
văn tỉnh, lượng mưa bình quân ở trạm Yên Bái là: 1.740,6 mm/năm; Văn
Chấn 1.368,7 mm/năm; Mù Cang Chải 1.834,5 mm/năm.
Phân
bố lượng mưa theo xu hướng tăng dần từ vùng thấp đến vùng cao và lượng
mưa phân bố không đồng đều các tháng trong năm, tháng mưa nhiều nhất là
tháng 5 đến tháng 9 (từ 114,8 đến 429,4 mm ); các tháng mưa ít nhất là
tháng 12 đến tháng 3 (từ 1,1 đến 80,3 mm ).
Do lượng mưa không đều giữa các tháng (10,11,12) là mùa khô, lượng mưa
trung bình chỉ đạt 16,7 mm/tháng nên gây ra hạn hán, thiếu nước cho sản
xuất và đời sống của nhân dân.
Vào
mùa mưa, ở một số nơi lượng mưa quá lớn như Mù Cang Chải, Trạm Tấu và
vùng trong huyện Văn Chấn gây lũ lụt, thiệt hại mùa màng, làm hỏng các
công trình giao thông, thủy lợi.
Chế độ ẩm
Theo số liệu khí tượng thì độ ẩm tương đối, trung bình năm tại các trạm:
Yên
Bái là 86%; Văn Chấn 83%, Mù Cang Chải 81%. Sự chênh lệch về độ ẩm giữa
các tháng trong năm của các vùng trong tỉnh lệch nhau không lớn, từ 3- 50C.
càng lên cao độ ẩm tương đối giảm xuống. Độ ẩm giữa các tháng có sự
chênh lệch, do độ ẩm phụ thuộc vào lượng mưa và chế độ bốc hơi (chế độ
nhiệt và chế độ gió), tháng có độ ẩm lớn nhất là tháng 2,3,4,5,6,7 từ
80%- 89%, những tháng có độ ẩm thấp nhất là tháng 11,12,1 có độ ẩm từ
77% 85%.
Yên Bái có lượng mưa hàng năm lớn, độ ẩm tương đối cao nên thảm thực
vật xannh tốt quanh năm, thể hiện rất rõ tính chất gió mùa.
Các hiện tượng thời tiết khác
Sương
muối: Xuất hiện chủ yếu ở độ cao trên 600m, càng lên sao số ngày có
sương muối càng nhiều. Vùng thấp thuộc thung lũng sông Hồng, sông Chảy
ít xuất hiện.
Mưa
đá: Xuất hiện rải rác ở một số vùng, càng lên cao càng có nhiều mưa đá,
thường xuất hiện vào cuối mùa xuân đầu mùa hạ và thường đi kèm với hiện
tượng đông và gió xoáy cục bộ.
Ngoài ra ở các vùng cao trên 1000m thỉnh thoảng còn có băng tuyết vào cuối tháng mùa đông.
Các vùng khi hậu
Với các nét đặc trưng có thể chia Yên Bái thành hai vùng khí hậu lớn,
có ranh giới được xác định bởi đường phân thủy của dãy núi cao theo
hướng Tây Bắc- Đông Nam, dọc theo hữu ngạn sông Hồng.Trong hai vùng lớn
lại có tiểu vùng với những đặc biệt khác biệt.
Vùng phía Tây
Phần
lớn vùng này có độ cao trung bình trên 700m, địa hình chia cắt mạnh,
mang tính chất khí hậu á nhiệt đới và ôn đới, ít chịu ảnh hưởng của gió
mùa Đông Bắc. Có gió Tây Nam nóng, khô nên khí hậu vùng này có nét đặc
trưng là nắng nhiều, ít mưa so với vùng phía Đông. Xuất phát từ các yếu
tố địa hình, khí hậu, đặc thù có thể chia vùng này thành 3 tiểu vùng
sau:
Tiểu
vùng Mù Cang Chải: Vùng này có độ cao trung bình từ 900m, có nhiều nắng
nhất tỉnh và chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam. Do độ cao địa hình lớn
nên nhiệt độ thấp, nhiệt độ trung bình 18-200C, về mùa đông lạnh có khi xuống tới 00C.Tổng nhiệt độ năm 6.500-7.0000C, lượng mưa: 1.800- 2.000 mm/năm; độ ẩm 80% thích hợp phát triển cây trồng, vật nuôi vùng ôn đới.
Tiểu vùng Tây Nam Văn Chấn: Vùng này có độ cao trung bình 800m, phía
Bắc nhiều mưa, phía Nam là vùng ít mưa nhất tỉnh. Nhiệt độ trung bình là
18-200C, mùa đông nhiệt độ xuống tới 10C, lượng mưa 1.800mm/năm, độ ẩm 84%. Thích hợp trồng cây và vật nuôi vùng á nhiệt đới và ôn đới.
Tiểu
vùng Văn Chấn – Tú Lệ: Độ cao trung bình vùng này 250-300m, có thung
lũng Mường Lò với diện tích trên 2.200 ha, nhiệt độ trung bình 22-230C, tổng nhiệt độ cả năm 8.0000C,
độ ẩm 83% thích hợp phát triển cây lương thực, cây công nghiệp chè, đặc
biệt chè tuyết vùng cao, quế, cây ăn quả và cây lâm nghiệp.
Vùng phía Đông
Khí hậu này chịu ảnh hưởng nhiều của gió mùa Đông Bắc, mưa nhiều về cả
số ngày và lượng mưa. Mưa phùn kéo dài ở thành phố Yên Bái và huyện Trấn
Yên. Nhiệt độ trung bình 21-220C, lượng mưa bình quân
1.800-2000mm/năm, thích hợp phát triển cây nông nghiệp; lương thực, thực
phẩm; cây công nghiệp, cây ăn quả, chè, cà phê; phát triển thuỷ sản...
có hai tiểu vùng sau:
Tiểu vùng Nam Trấn Yên - Văn Yên - Thành phố Yên Bái - Ba Khe; thuộc
thung lũng sông Hồng, dưới chân hệ thống núi Hoàng Liên Sơn - Pú Luông,
nhiệt độ trung bình 23-240C, tổng nhiệt độ 8.0000C, lượng mưa bình quân 1.800-2.200 mm/năm và vùng có mưa phùn kéo dài trong thời kỳ đầu năm.
Tiểu vùng Lục Yên- Yên Bình: Thuộc thung lũng sông chảy- hồ Thác Bà, là
vùng có diện tích mặt nước nhiều nhất tỉnh ( hồ Thác Bà diện tích
19.050 ha), có khí hậu ôn hòa, có điều kiện thuận lợi phát triển nông-
lâm nghiệp, thủy sản và du lịch
DÂN CƯ
Năm 2010, tổng dân số toàn tỉnh là 752.922 người. Mật độ dân số bình là 109 người/km2, tập trung ở một số khu đô thị như thành phố Yên Bái, thị xã Nghĩa Lộ và các thị trấn huyện lỵ.
Theo số liệu điều tra, trên địa bàn tỉnh Yên Bái có tới 30 dân tộc sinh
sống, trong đó có 7 dân tộc có dân số trên 10.000 người. 2 dân tộc có
từ 2.000 - 5.000 người, 3 dân tộc có từ 500 -2.000 người. Trong đó người
Kinh chiếm 49,6%, người Tày chiếm 18,58%, người Dao chiếm 10,31%, người
HMông chiếm 8,9% người Thái chiếm 6,7%, người Cao Lan chiếm 1%, còn lại
là các dân tộc khác.
Sự phân bố các cộng đồng dân tộc trên địa bàn tỉnh có những đặc trưng sau:
+ Vùng thung lũng sông Hồng chiếm 41% dân số toàn tỉnh, trong đó: người
Kinh 43%, người Tày chiếm 33%, người Dao chiếm 10%, người Hmông chiếm
1,3% so với dân số toàn vùng.
+ Vùng thung lũng sông Chảy chiếm 28% dân số toàn tỉnh. Trong đó người
Kinh chiếm 43%, người Tày chiếm 11%, người Dao chiếm 13%, người Nùng
chiếm 7%... so với dân số toàn vùng.
+ Vùng ba huyện phía Tây (Trạm Tấu, Mù Cang Chải, Văn Chấn) chiếm 31%
dân số toàn tỉnh.Trong đó: người Kinh là 33%; người Thái 19,2%, Tày
11,8%, Hmông 24,1%; người Mường 5,2% và người Dao 5,1% so với dân số
toàn vùng.
Cộng đồng và các dân tộc trong tỉnh với những truyền thống và bản sắc
riêng đã hình thành nên một nền văn hóa rất đa dạng và phong phú, có
nhiều nét độc đáo, sâu sắc nhân văn và những truyền thống tập quán trong
lao động sản xuất có nhiều bản sắc dân tộc.
NGUỒN LAO ĐỘNG
Năm 2010, số lao động trong độ tuổi là 400.643 người (trong đó thành thị là 68.754 người, nông thôn là 331.889 người) chiếm 53.21% dân số....
Trình độ lao động: 20.085 người có trình độ đại học, cao đẳng, 207 người trình độ thạc sỹ, có 9 tiến sỹ.
Yên Bái: Ra quân Tết trồng cây “Đời đời nhớ ơn Bác Hồ” Xuân Quý Tỵ 2013
Cập nhật lúc: 11:18:20 SA, ngày 19/02/2013
CTTĐT - Hưởng ứng lời kêu gọi của Bác "Vì lợi ích mười năm
thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người", sáng
18/2/2013 các địa phương trên địa bàn tỉnh Yên Bái đã ra quân Tết trồng
cây “Đời đời nhớ ơn Bác Hồ” Xuân Quý Tỵ 2013
* Tại huyện Lục Yên: Dự lễ ra quân Tết
trồng cây có các đồng chí Hoàng Văn Vui, Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch HĐND
huyện; Bùi Văn Thịnh, Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện; Nguyễn
Thị Minh Phương, Phó Bí thư thường trực Huyện ủy; các đồng chí trong Ban
Thường vụ Huyện ủy, Thường trực HĐND, UBND, UBMTTQ, lãnh đạo các phòng
ban, đơn vị, đoàn thể huyện, đông đảo cán bộ, công chức, viên chức,
chiến sĩ lực lượng vũ trang trong huyện và thị trấn Yên Thế.
Đồng chí Bùi Văn Thịnh, Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện dự lễ ra quân Tết trồng cây
Phong
trào Tết trồng cây theo lời kêu gọi của Bác Hồ hằng năm đã được các đơn
vị và nhân dân các dân tộc huyện Lục Yên hưởng ứng, tham gia tích cực.
Năm 2012, toàn huyện trồng được 2.400 ha rừng, nhờ đó góp phần đưa độ
che phủ rừng của huyện đạt trên 66%.
Tại
lễ phát động Tết trồng cây “Đời đời nhớ ơn Bác Hồ” Xuân Quý Tỵ, đồng
chí Bùi Văn Thịnh, Chủ tịch UBND huyện yêu cầu các cấp, các ngành cần
tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, vận động để nhân dân thấy rõ
tác dụng của rừng và công tác bảo vệ rừng, trồng cây, trồng rừng gắn
liền với phát triển kinh tế- xã hội, ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo
vệ môi trường sinh thái.
Ngay
sau lễ phát động Tết trồng cây Xuân Quý Tỵ, các đơn vị đã tham gia
trồng trên 100 cây sấu trên tuyến đường nhánh mới mở tại tổ 17, thị trấn
Yên Thế, mở đầu cho việc thực hiện mục tiêu trồng mới 2.100 ha rừng tập
trung trong năm 2013.
Minh Tuấn – BBT Website Lục Yên
* Tại huyện Trạm Tấu: Với mục đích
làm cho mọi tầng lớp nhân dân tích cực tham gia trồng cây,
trồng rừng, bảo vệ rừng góp phần nâng cao tỷ lệ che phủ rừng,
cải thiện chất lượng rừng và môi trường sinh thái nâng cao độ
che phủ của rừng, làm cho tết trồng cây trở thành hoạt động
thường niên mỗi dịp đầu xuân, sáng ngày 18/ 2, huyện Trạm Tấu đã phát động tết trồng cây đời nhớ ơn Bác Hồ .
Lãnh đạo huyện Trạm Tấu trồng cây tại lễ phát động
Tham
dự lễ phát động có các đồng chí lãnh đạo BTV Huyện ủy-
Thường trực HĐND – UBND huyện, lãnh đạo và đông đủ cán bộ LLVT,
cán
bộ các cơ quan ban ngành trên địa bàn huyện. Thông qua các khẩu
hiệu nhân dân các dân tộc huyện Trạm Tấu quyết tâm thực hiện
tốt phong trào xanh rừng- xanh đồng- xanh nương rẫy, xây dựng
huyện Trạm Tấu phát triển toàn diện bền vững thân
thiện với môi trường. Tại lễ phát động các đồng chí lãnh
đạo huyện ủy- HĐND- UBND huyện đã trồng cây tại khu vực nhà
máy nước của huyện, ngay sau lễ phát động đồng loạt các cơ
quan ban ngành, các xã thị trấn đã phát động trồng cây hưởng
ứng tết trồng cây đời đời nhớ ơn Bác Hồ.
Cũng
nhân dịp này, lãnh đạo huyện Trạm Tấu đã đi kiểm tra tình
hình sản xuất vụ xuân tại một số xã trong huyện huyện. Qua
kiểm tra cho thấy, ngay sau tết nguyên đán Quý Tỵ 2013, bà con
đã bắt tay vào sản xuất vụ xuân với một không khí khẩn
trương, phấn khởi phấn đấu gieo cấy trên 1000 ha lúa xuân trong
khung thời vụ tốt nhất .
Thu Hằng - Lộc Chầm - Đài TT-TH Trạm Tấu
* Tại huyện Trấn Yên:
Sáng ngày 18/02/2013, tại tuyến đường cây xăng đi bệnh viện Đa khoa
huyện Trấn Yên, huyện Trấn Yên đã tổ chức lễ phát động Tết trồng cây và
tổ chức giải thể thao mừng Đảng mừng xuân năm 2013.
Lãnh đạo huyện Trấn Yên dự lễ phát động Tết trồng cây
Năm 2012, nhân dân các dân tộc trong huyện đã trồng được hơn 3.000 ha rừng, sản lượng gỗ khai thác và chế biến hơn 76.000 m3,
trong đó cơ cấu rừng trồng chủ yếu là cây nguyên liệu giấy. Bên cạnh
đó, nhân dân huyện Trấn Yên còn tích cực trồng những cây có giá trị kinh
tế cao và đến nay diện tích cây quế của toàn huyện được nâng lên hơn
8.000ha và hơn 1.000 ha tre măng Bát Độ. Nhiều địa phương trồng rừng đạt
và vượt kế hoạch giao như Hồng Ca, Vân Hội, Việt Hồng, Kiên Thành, Quy Mông, Báo Đáp, Tân Đồng, Lương Thịnh.
Qua đây đã duy trì tỷ lệ độ che phủ của rừng đạt 68%, góp phần tích cực
trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm cho hàng nghìn
lao động, đồng thời bảo vệ môi trường sinh thái, thúc đẩy công nghiệp
chế biến gỗ phát triển. Với tinh thần "nhà nhà trồng cây, người người trồng cây", năm 2013 huyện Trấn Yên phấn đấu trồng 2.400
ha rừng các loại, trong đó phấn đấu vụ xuân trồng đạt 70% kế hoạch năm.
Để thực hiện được kế hoạch đó, ngay trong ngày 18/2 tất cả các địa
phương trong huyện đồng loạt tổ chức lễ phát động trồng cây và ngay
trong ngày đầu ra quân Trấn Yên đã trồng được 850 ha rừng tập trung và 185.000 cây phân tán.
Cùng
ngày Huyện đoàn Trấn Yên còn phối hợp với Trung tâm Văn hóa và Thể thao
tổ chức hội thi kéo co giữa các tổ chức đoàn trong huyện. Được biết,
tham gia giải thể thao mừng Đảng mừng xuân này có 21 đoàn với hơn 200
vận động viên là các đoàn viên đang sinh hoạt tại các cơ sở đoàn trong
huyện, sau 1 ngày thi đấu nhiệt tình và sôi nổi, Ban tổ chức đã trao các
giải nhất, nhì, ba và khuyến khích cho các đội có thành tích xuất sắc
trong thi đấu./.
Thanh Hùng - Đài TT-TH Trấn Yên
Chủ trang trại giàu nghị lực
Không cam chịu đói nghèo, sau nhiều đêm suy nghĩ, anh Hoàng
Đức Hưởng ở xã Đại Phác, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái đã mạnh dạn thuê
đất, vay tiền của người thân, bạn bè đầu tư xây dựng trang trại phát
triển chăn nuôi. Trời không phụ người có tâm, chỉ sau một thời gian
ngắn, gia đình anh Hưởng không chỉ đủ ăn, mà còn có bát ăn, bát để, từng
bước vươn lên làm giàu bằng chính sức lao động của mình.
Chuồng nuôi lợn siêu nạc của anh Hưởng.
Anh
Hưởng tâm sự: "Thời gian đầu bắt tay vào nghề mới, vợ chồng tôi cũng lo
lắm và không biết sẽ bắt đầu từ đâu? Thế nhưng, không lẽ bó tay, mãi
chịu cảnh đói, nghèo, nên sau khi học hỏi kinh nghiệm của các hộ làm
trang trại trong vùng, vợ chồng tôi quyết định mua vài đôi lợn giống về
nuôi. Khi đã có kinh nghiệm, lợn quen chuồng, phát triển tốt, vợ chồng
tôi mới đầu tư tăng thêm đầu lợn".
Ngừng
một lát, anh Hưởng cho biết thêm: “Cái nghề chăn nuôi này gắn nhiều với
sách báo, tài liệu khoa học kỹ thuật. Hồi đầu mình cũng tìm đọc nhiều,
lại nhờ cả cán bộ khuyến nông huyện hướng dẫn nên dần dần vợ chồng mình
cũng tích lũy được ít nhiều kinh nghiệm. Làm được một thời gian, thấy có
khả năng phát triển, hai vợ chồng bàn nhau, quyết định “làm lớn” luôn”.
Cái
chuyện “làm lớn” của vợ chồng anh bắt đầu từ việc anh lặn lội xuống tận
Trại giống Thụy Phương (Hà Nội) để tìm mua loại lợn nái chất lượng cao.
Rồi lứa lợn con đầu tiên sinh ra khỏe mạnh, ai cũng chúc mừng cho thành
công của đôi vợ chồng trẻ dám nghĩ dám làm...
Từ
đó, số đầu lợn trong chuồng tăng lên qua từng năm để giờ đây mỗi năm
anh chị xuất ra thị trường hàng chục tấn lợn thịt, cộng với thu nhập từ
dịch vụ khác, mỗi năm gia đình anh thu về 700 đến 800 triệu đồng. Trừ
chi phí, anh chị Hưởng cũng còn lãi được ngót nghét 200 triệu đồng/năm.
Thăm
ngôi nhà 3 tầng mới xây khang trang, đầy đủ tiện nghi sinh hoạt cạnh
con đường từ trung tâm huyện vào xã Đại Phác của gia đình anh Hưởng,
chúng tôi thực sự thấy ngỡ ngàng và cảm phục người nông dân dám nghĩ dám
làm và biết cách làm giàu từ chính sức lao động của mình.
Thị xã Nghĩa Lộ khai thác hiệu quả mô hình cá xen lúa
Với địa hình bằng phẳng, có nguồn nước dồi dào từ Ngòi Thia,
suối Nung, suối Nậm Tộc không những đã tạo cho thị xã Nghĩa Lộ điều
kiện thuận lợi phát triển nông nghiệp mà còn là tiềm năng, lợi thế để
địa phương phát triển ngành chăn nuôi thủy sản, nhất là mô hình nuôi cá
xen lúa.
Người dân đến Trạm giống Thủy sản Nghĩa Lộ mua cá giống về thả ruộng.
Với
lợi thế đồng ruộng trũng, nguồn nước dồi dào quanh năm nên trong nhiều
năm qua gia đình ông Lường Văn Sính, tổ Tông Pọng 1, phường Tân An đã
tận dụng, áp dụng biện pháp kỹ thuật thả cá xen lúa cho thu nhập đáng
kể.
Gia
đình ông Sính đã tận dụng 3.000m2 ruộng vừa cấy lúa vừa thả cá. Cá nuôi
chủ yếu là cá chép, cá rô, mỗi năm thu hoạch 2 vụ được trên 2 tạ cá,
giá bán bình quân từ 50.000 - 55.000 đồng/kg mang về cho gia đình ông
trên 10 triệu đồng.
Ông
Sính cho biết: “Mặc dù không phải là nghề chính nhưng người dân chúng
tôi đã biết tận dụng diện tích trồng lúa để nuôi cá, tăng thêm thu nhập
cho gia đình”. Là một trong những người nuôi cá lâu năm ở thôn Bản Vệ,
xã Nghĩa An, ông Đồng Văn Nọ có 4.000m2 diện tích trồng lúa đều đã thả
cá chép, mỗi vụ thu về trên 1 tạ cá.
Ông
Nọ cho biết: “Gia đình nuôi cá xen lúa đã lâu. Nuôi loại cá này không
khó, không phải chăm sóc nhiều vì cá ăn cây cỏ non, phân chuồng bón cho
lúa, khi lúa trỗ ăn phấn hoa. Nuôi cá trước hết là để cải thiện bữa ăn
cho gia đình và nâng cao thu nhập trên 1 đơn vị diện tích đất canh tác”.
Phong
trào nuôi cá xen lúa ở Nghĩa Lộ đã có từ lâu, hiện nay, diện tích thả
cá xen lúa trên địa bàn là hơn 160ha, tập trung ở 7 xã, phường, trong
đó: phường Tân An trên 32ha, Cầu Thia gần 10ha, Trung Tâm trên 7ha, xã
Nghĩa Lợi trên 10ha, Nghĩa An gần 15ha… Chương trình nuôi cá xen lúa đã
góp phần nâng cao thu nhập, xóa đói giảm nghèo cho người nông dân và
nâng cao giá trị sản xuất trên 1ha canh tác của địa phương.
Tuy
nhiên, hiện nay, tập quán canh tác của bà con trong vùng là nuôi cá để
cải thiện chứ chưa sản xuất tạo vùng hàng hóa tại chỗ. Việc nuôi thả,
chăm sóc chưa đúng kỹ thuật cũng ảnh hưởng rất nhiều đến năng suất như:
thả giống mật độ cao, kéo dài thời gian thả, con giống không đồng đều...
cộng với các yếu tố môi trường như: nước bị ô nhiễm do dùng thuốc trừ
sâu, thuốc bảo vệ thực vật nên cá dễ bị ngộ độc chết…
Để
khai thác được hết các tiềm năng, lợi thế của địa phương, góp phần đẩy
mạnh ngành chăn nuôi thủy sản trở thành ngành kinh tế có tỷ trọng cao
trong sản xuất nông nghiệp, thị xã Nghĩa Lộ cần tăng cường công tác quản
lý giống và áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đưa
năng suất cá lúa xen canh tăng cao; tập trung xây dựng và nhân rộng các
mô hình cá lúa mang lại hiệu quả; cần có các cơ chế, chính sách hỗ trợ
cung ứng giống, kỹ thuật cho nhân dân; các cơ quan chuyên môn cần có
biện pháp phối hợp, chỉ đạo trong công tác tuyên truyền, vận động, tập
trung hướng dẫn kỹ thuật chăn nuôi thủy sản đến từng thôn, bản và hộ
dân...
Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh giám sát việc sử dụng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ tại Sở Y tế
Chiều ngày 5/3, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Yên Bái do đồng
chí Nguyễn Công Bình - Phó trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh làm
trưởng đoàn đã có buổi làm việc với Sở Y tế về việc thi hành Luật Thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí trong sử dụng nguồn trái phiếu Chính phủ
(TPCP) cho đầu tư xây dựng cơ bản giai đoạn 2006-2012.
Từ
năm 2006 - 2012 bằng nguồn vốn TPCP, ngành Y tế Yên Bái đã được đầu tư,
triển khai thực hiện 8 dự án Bệnh viện đa khoa tuyến huyện, 14 phòng
khám đa khoa khu vực, 13 dự án mua sắm trang thiết bị y tế phục vụ công
tác khám chữa bệnh với tổng nguồn vốn TPCP trên 330 tỷ đồng. Từ nguồn
vốn này đã góp phần nâng cấp cơ sở vật chất phục vụ cho việc khám, điều
trị và chăm sóc bệnh nhân, nâng cao chất lượng các dịch vụ khám, chữa
bệnh, đưa các dịch vụ kỹ thuật y tế hiện đại về gần dân, tạo điều kiện
thuận lợi cho nhân dân được tiếp cận với các dịch vụ y tế ngày một tốt
hơn.
Giai
đoạn 2012 - 2015, ngành Y tế được phân bổ từ nguồn vốn TPCP trên 163
tỷ đồng để thực hiện 8 dự án Bệnh viện tuyến huyện và 3 dự án Bệnh viện
tỉnh bao gồm: Cải tạo, nâng cấp tổng thể Bệnh viện đa khoa tỉnh; mua sắm
trang thiết bị y tế phục vụ công tác khám chữa bệnh và chỉ đạo chuyên
khoa Bệnh viện tâm thần tỉnh Yên Bái; Bệnh viện lao và bệnh phổi; với
tổng mức vốn đăng ký trên 160 tỷ đồng. Đến nay công tác quản lý
quy hoạch, kế hoạch thẩm định và phê duyệt các dự án đầu tư, phân bổ và
điều chỉnh mức phân bổ giữa các dự án đảm bảo theo đúng quy định hiện
hành.
Tuy
nhiên việc không cho phép bố trí vốn TPCP giai đoạn 2012 -2015
cho các hạng mục phát sinh đã gây mất cân đối trong bố trí vốn
thanh toán không phát huy được hiệu quả đầu tư của dự án. Sở Y
tế đề xuất, kiến nghị với Chính phủ cho phép địa phương được chủ động
điều hành, thanh toán khối lượng các dự án tránh nợ đọng trong xây dựng
cơ bản. Đề nghị bổ sung vốn từ TPCP và ngân sách Nhà nước để hoàn
thành các dự án bệnh viện tuyến huyện và các phòng khám đa khoa khu
vực theo quy mô được phê duyệt.
Phát
biểu kết luận cuộc giám sát, đồng chí Nguyễn Công Bình - Phó
trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Yên Bái ghi nhận, đánh giá cao
những kết quả đạt được của Sở Y tế trong việc triển khai thực
hiện, phân bổ sử dụng có hiệu quả nguồn vốn TPCP đầu tư xây
dựng cơ bản giai đoạn 2006 - 2012. Đồng chí cũng phân tích rõ
và nhấn mạnh một số nhiệm vụ cụ thể mà ngành y tế cần tiếp
tục thực hiện như cần có căn cứ quy hoạch bổ sung kế hoạch
vốn để phân kỳ đầu tư hiệu quả, tránh nợ đọng trong xây dựng
cơ bản. Tăng cường công tác thẩm định, giám sát, chú ý trong
lựa chọn nhà thầu tránh thất thoát lãng phí. Cần có các
giải pháp cụ thể trong đào tạo đội ngũ cán bộ để sử dụng
hiệu quả các trang thiết bị y tế đã được đầu tư. Thực hiện
nghiêm Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong sử dụng
nguồn vốn TPCP cho đầu tư xây dựng cơ bản.
Những con đường “Dân liệu”
Năm 2012, xã Mai Sơn, huyện Lục Yên (Yên Bái) đã triển khai
thi công hoàn thành được gần 3km đường bê tông, với tổng kinh phí đầu tư
trị giá trên 3 tỷ 205 triệu đồng, trong đó nhân dân đóng góp trị giá
trên 1,4 tỷ đồng.
Năm 2012 xã Mai Sơn đã kiên cố hóa gần 3 km đường bê tông.
Thực
hiện Đề án phát triển giao thông nông thôn, năm 2012, cấp ủy, chính
quyền xã Mai Sơn, huyện Lục Yên đã linh hoạt trong công tác tuyên
truyền, vận động nhân dân hăng hái tham gia hiến đất mở đường, thực hiện
kiên cố hóa đường giao thông liên thôn, bản và là một điểm sáng trong
phong trào phát triển làm đường giao thông nông thông (GTNT) của huyện
Lục Yên.
Dẫn
chúng tôi đi trên con đường mới mở ở thôn Đán Đăm, ông Hứa Văn Tình -
Phó chủ tịch UBND xã Mai Sơn, Phó ban Chỉ đạo thực hiện kiên cố hóa
đường GTNT của xã cho biết: "Là xã được huyện chọn làm điểm để triển
khai thực hiện kiên cố hóa đường GTNT liên thôn, bản, ngay sau khi có kế
hoạch, cấp ủy Đảng, chính quyền đã thành lập Ban chỉ đạo, phân công
nhiệm vụ cho các thành viên trực tiếp xuống từng thôn bản, tổ chức họp
dân, tuyên truyền vận động nhân dân, với phương châm "Đường ta làm ta
đi", từ đó nâng cao nhận thức tầm quan trọng của công tác phát triển
GTNT và được nhân dân đồng tình ủng hộ. Đến nay, toàn xã có hơn 60 hộ
dân tình nguyện hiến trên 10 nghìn mét vuông đất để làm đường, tích cực
hưởng ứng tham gia đóng góp ngày công, vật liệu, tiền mặt... kiên cố hóa
đường GTNT".
Năm
2012, xã Mai Sơn được huyện giao kế hoạch kiên cố hóa gần 3km đường bê
tông ở các thôn: Sơn Đông, Sơn Nam và Đán Đăm. Trong đó, riêng thôn Sơn
Đông được giao chỉ tiêu làm 1,3km. Để làm được con đường này, ngoài việc
huy động đóng góp bằng vật liệu cát sỏi, ngày công tham gia san gạt,
làm mặt nền đường, 35 hộ dân của thôn đã tham gia hiến trên 3.000m2
đất. Nhiều gia đình trong thôn đã tình nguyện chặt bỏ những cây trồng
lâu năm và nhiều diện tích cây cối, hoa màu… phục vụ cho việc kiên cố
hóa đường giao thông liên thôn, bản.
Gia
đình bà Hoàng Thị Tiếng ở thôn Sơn Đông là một trong số những hộ đã
hiến nhiều diện tích đất nhất với hơn 200m2 đất vườn tạp để làm đường,
cho biết: "Ban đầu, gia đình tôi cũng chưa thông vì muốn dựng thêm cái
nhà cho đứa con trai nhưng Đảng ủy, chính quyền xã, đoàn thể đến tuyên
truyền, vận động cả gia đình tôi cũng đã dần hiểu ra lợi ích lâu dài,
làm đường là để cho tương lai con, cháu mình còn đi học hành".
Nhân dân xã Mai Sơn tham gia mở mới trên 16km đường liên thôn, bản.
Ông
Hoàng Trung Khiêm cũng là một tấm gương điển hình trong phong trào hiến
đất làm đường của xã tâm sự: "Năm nay tôi đã ngoài 70 tuổi rồi, có còn
đi đâu xa được nữa nhưng khi có chủ trương vận động nhân dân hiến đất để
triển khai làm đường, gia đình tôi cũng đồng tình, ủng hộ ngay. Đến
nay, con đường đã hoàn thành, tôi cũng thấy rất vui và phấn khởi lắm,
gia đình tôi đóng góp một phần nhỏ để làm nên con đường cũng vì lợi ích
chung của bà con trong dân bản, tạo điều kiện cho việc giao lưu, buôn
bán dễ dàng hơn và con cháu mình đi học thuận tiện, không bị lầy lội như
trước nữa".
Thực
hiện chủ trương "Nhà nước và nhân dân cùng làm", trong đó, Nhà nước đầu
tư hỗ trợ 60%, bằng xi măng, hỗ trợ các phương tiện máy móc, còn lại
40% nhân dân đóng góp bằng tiền, ngày công, vật liệu, năm 2012, xã Mai
Sơn đã triển khai thi công hoàn thành được gần 3km đường bê tông, với
tổng kinh phí đầu tư trị giá trên 3 tỷ 205 triệu đồng, trong đó nhân dân
đóng góp trị giá trên 1,4 tỷ đồng.
Theo
thống kê, toàn xã có khoảng 25km đường liên thôn, bản, trong đó mới
kiên cố hóa được 5,5km đường bê tông. Phát huy kết quả đạt được trong
năm 2012 Đảng ủy, chính quyền xã Mai Sơn tiếp tục đẩy mạnh công tác
tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt công tác giải phóng mặt
bằng, các hộ dân sẵn sàng hiến đất khi có các tuyến đường đi qua.
Xã
Mai Sơn đã vận động nhân dân mở mới thêm 2km đường đất (tuyến từ thôn
Đán Đăm đi thôn Sơn Thượng) và nhân dân đã hiến trên 5.514m2
đất cùng với rất nhiều diện tích cây cối, hoa màu, cây trồng lâu năm
khác để giải phóng mặt bằng tạo điều kiện thuận lợi cho thi công.
Từ
phong trào này cùng sự đồng tình, ủng hộ nhất trí cao trong nhân dân đã
tạo được sức lan tỏa mạnh mẽ, khí thế thi đua sôi nổi rộng khắp toàn xã
trong việc triển khai huy động sức dân tham gia mở đường GTNT. Đến nay,
toàn xã đã vận động nhân dân mở mới được hơn 16/24,6km đường đất, mặt
nền đường rộng 5,5m để đảm bảo cho việc có thể thi công được ngay khi có
chủ trương hỗ trợ đầu tư của Nhà nước.
Nói
về những kinh nghiệm trong việc huy động nhân dân tham gia kiên cố hóa
đường GTNT trên địa bàn xã, Phó chủ tịch UBND xã Mai Sơn cho hay: "Đó là
nhờ phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, vai trò gương mẫu của
cán bộ, đảng viên và trong quá trình triển khai thực hiện tốt công tác
công khai, minh bạch, dân chủ, được nhân dân đồng tình, ủng hộ, khi lòng
dân đã thuận thì làm việc gì cũng thuận lợi, thành công". Đó là minh
chứng rõ ràng nhất khi "Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân
liệu cũng xong".
Kết quả sản xuất nông lâm nghiệp tháng 2 năm 2013
CTTĐT - Tháng 2 năm 2013 là tháng có Tết Nguyên đán Quý Tỵ
tuy nhiên các hoạt động sản xuất nông – lâm nghiệp trên phạm vi toàn
tỉnh vẫn đạt mục tiêu đề ra.
Nông dân Lục Yên chăm sóc cây ngô đông.
Tổng
diện tích gieo trồng đạt 9.217 ha, tăng 9,83% (tăng 824,6 ha) so với vụ
đông năm trước. Diện tích tăng chủ yếu ở diện tích cây ngô (tăng 22,35%
= 1.017,2 ha) so với năm trước vượt 11,37% kế hoạch vụ đông. Diện tích
các cây trồng khác như khoai lang, rau các loại đạt thấp hơn so với cùng
kỳ (khoai lang đạt 990,7 ha, bằng 88,1% so với cùng kỳ; rau các loại
đạt 2.639,8 ha bằng 99,63% so với cùng kỳ).
Năng
suất ngô đạt 28,02 tạ/ha, sản lượng đạt 15.603,4 tấn, tăng 28,45% so
với cùng kỳ năm trước; cây khoai lang năng suất đạt 48,92 tạ/ha, sản
lượng đạt 4.846,9 tấn bằng 90,34% so với cùng kỳ; cây rau các loại năng
suất đạt 117,09 tạ/ha, sản lượng đạt 30.909,6 tấn tăng 1,69% so cùng kỳ
năm trước.
Tính đến ngày 19/02/2013 toàn tỉnh đã cung
ứng được 659 tấn giống các loại phục vụ cho nhu cầu sản xuất, đã cấy
được 15.389 ha/17.930 ha, đạt 85,8% kế hoạch và vượt 1,5% so cùng kỳ năm
trước; trong đó vùng thấp đạt 89% kế hoạch, vùng cao đạt 62,5% kế
hoạch. Quản lý và chăm sóc tốt 11.202 ha chè hiện có; sản xuất, chăm sóc 10.000.000 bầu cây giống, đủ cho kế hoạch trồng thay thế 500 ha chè.
Toàn
tỉnh cũng đã trồng được 2.150,6 ha rừng trồng sản xuất, đạt 14,3% kế
hoạch trồng rừng cả năm và đạt 21,5 % kế hoạch trồng rừng vụ Xuân Hè.
Trong đó diện tích trồng tập trung 1.875,8 ha; trồng cây phân tán đạt
274,8 ha.
Đầu xuân gặp những nông dân giỏi
Một chuyên gia về kinh tế nhận định, trong thời điểm khó
khăn này, nông nghiệp vẫn là nòng cốt, là trụ cột, đặc biệt là chỗ dựa
cho toàn nền kinh tế. Và không ai khác, chính những người nông dân năng
động sẽ làm nên một nền nông nghiệp phát triển.
Anh Hà Tiến Hùng có thu nhập hàng trăm triệu đồng mỗi năm nhờ nuôi ba ba.
Giữa cái náo nức của một mùa xuân mới, gặp những nông dân giỏi bàn chuyện làm giàu thật thú vị…
Làm giàu từ đất
Thời
tiết những ngày đầu năm se sắt lạnh kèm theo mưa phùn nhỏ rất đặc trưng
của mùa xuân. Nhưng câu chuyện về con ba ba trong ngày đầu xuân với anh
Hà Tiến Hùng ở tổ 28, phường Yên Ninh (thành phố Yên Bái) quả là hấp
dẫn. Ngay giữa lòng thành phố đông đúc mà có một cơ ngơi rộng rãi, đẹp
đẽ như nhà ông chủ Hùng thật đáng tiền! Bên cạnh ngôi nhà tiền tỷ với
kiến trúc hiện đại là trang trại quy mô. Với diện tích hơn 700m2 mặt
nước, những ao nuôi được ngăn riêng thành từng khu dành cho ba ba trưởng
thành, khu ươm ba ba giống, nhà ấp trứng...
Trong
câu chuyện đầu xuân, người đàn ông có quê gốc Cát Thịnh (Văn Chấn) -
“thủ phủ” của ba ba say sưa kể về cái nghiệp đã vận vào mình. Thấm thoắt
10 năm theo nghề với nhiều thăng trầm đã cho anh Hùng không ít kinh
nghiệm quý báu, từ tập tính của loại vật này đến cách phòng trị bệnh,
thời gian sinh trưởng, nguồn nước...
Nhìn
lại năm qua, anh đã bán được hơn 1.000 con ba ba giống và hơn 1 tạ ba
ba thương phẩm. Ông chủ trẻ phân tích: “Tuy không được giá như các năm
trước nhưng hiện ba ba giống mới nở cũng có giá từ 200.000 - 250.000
đồng/con, ba ba thương phẩm giá 600.000 đồng/kg. Không chỉ có những
người trong vùng mà còn tận Sơn La, Tuyên Quang… cũng lặn lội tìm đến
mua giống, tham quan và học hỏi kinh nghiệm. Ba ba vẫn sẽ là loại vật
nuôi mang lại thu nhập “khủng” cho những người đam mê”.
Với
giá cả như vậy, mỗi năm, anh Hùng cũng đã có thu nhập hàng trăm triệu
đồng. Sự mạnh dạn, dám nghĩ, dám làm đem lại thành công cho không ít
người nông dân, trong đó có ông chủ ba ba Hùng.
Ông Nguyễn Văn Sách chăm sóc cá.
Mỗi
người có một đam mê nhưng đam mê nào cũng xuất phát từ ý chí thoát
nghèo và vươn lên làm giàu. Với ông Nguyễn Văn Sách ở thôn Đồng Danh, xã
Minh Quân (Trấn Yên) lại khác. Hai vợ chồng ông là những nông dân thuần
chất, lam lũ, chịu khó và giỏi lao động. Hỏi chuyện thu nhập năm qua từ
mô hình kinh tế tổng hợp, hai vợ chồng ông cười rồi giơ bàn tay lên
nhẩm tính.
Ao
cá trước nhà mỗi năm cho thu nhập 1 tấn cá thịt chừng 40 triệu đồng;
đàn lợn với 3 con lợn nái và mấy chục con lợn thịt mỗi năm xuất bán vài
tấn được 100 triệu đồng; 2ha keo đã đến kỳ khai thác, nửa héc-ta chè mỗi
năm thu 5 tấn và 5 sào lúa mỗi năm 2 vụ cho thu hoạch 2 tấn thóc, cộng
với chăn nuôi mấy trăm con gà, vịt các loại, tính ra mỗi năm trừ chi phí
ông cũng thu được 100 triệu đồng.
Năm
mới đến, hai vợ chồng ông Sách còn thật nhiều dự định. Vừa nhận khoán
9ha đầm, ông đã đầu tư hơn 40 triệu đồng thả 1 tấn cá giống cộng thêm
năm nay, 80 gốc thanh long ruột đỏ đã bước sang tuổi thứ 3 sẽ bắt đầu
cho thu hoạch ổn định, mang lại cho gia đình thêm những nguồn thu không
nhỏ.
Ngược
con đường bê tông êm thuận, tôi đến thăm gia đình ông Phạm Thế Cầu,
thôn Bình Sơn, xã Văn Tiến (thành phố Yên Bái). Ông Cầu từ lâu được gọi
với cái tên ông Cầu “trồng chanh”. Tên gọi đó gắn với ông từ cái nghề
trồng chanh tứ thời Đà Lạt nổi tiếng đã 10 năm nay. Đón khách bằng nụ
cười hiền hậu và giọng nói ấm áp, ông bảo: “Nông dân mà, ai cũng chân
chất và thật thà, làm được sao thì nói vậy thôi!”.
Trong
vườn có trên 1.000 gốc chanh, với giá bán 15.000 - 20.000 đồng/kg và
40.000 đồng/cành chanh giống, hai vợ chồng luôn tay hái quả, chiết cành
mà vẫn không đủ cung cấp cho thị trường. “Có sức người sỏi đá cũng thành
cơm”, 10ha đất trong 10 năm qua là mồ hôi, là công sức để cho chanh,
cho thanh long, cho nhãn, cho bưởi đơm hoa kết trái. Những tấm bằng khen
trên tường của các cấp, từ thành phố đến tỉnh, Trung ương là ghi nhận
cho thành thích lao động của ông.
Mong ước đầu xuân
Sản
xuất nông nghiệp luôn đối mặt với khó khăn, từ thiên tai, dịch bệnh cho
đến giá cả các loại vật tư nông nghiệp không ngừng tăng cao... Bước
sang năm mới, anh Hùng, ông Sách, ông Cầu và rất nhiều người nông dân
trên các miền quê khác luôn mong muốn mưa thuận, gió hòa để nông dân bớt
đi nhiều nỗi nhọc nhằn.
“Để
phát triển sản xuất ổn định, người dân rất cần được Nhà nước quan tâm
hơn nữa, có các chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất, vay vốn với lãi
suất ưu đãi, có chính sách phát triển chăn nuôi hàng hóa” - ông Sách cho
biết.
Bên
cạnh đó, nông nghiệp muốn phát triển bền vững cần thị trường đầu ra ổn
định, giá cả hợp lý, cần có các chính sách phát triển thị trường, mở
rộng liên kết “4 nhà” để các sản phẩm nông sản làm ra tiêu thụ ổn định,
nhanh chóng, tạo động lực cho sản xuất.
Những
người nông dân năng động, sản xuất giỏi sẽ góp phần quan trọng vào việc
thúc đẩy sản xuất, đóng góp quan trọng cho nền kinh tế. Họ xứng đáng
những bông hoa đẹp trong vườn hoa xuân rực rỡ!
Thoát nghèo nhờ trồng măng mai
Nhiều hộ gia đình ở xã Lâm Thượng (Lục Yên, Yên Bái) không những thoát nghèo mà còn giàu lên nhờ trồng tre măng mai.
Sau
5 năm triển khai mô hình trồng tre măng mai, nhiều hộ gia đình ở xã Lâm
Thượng, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái không những thoát nghèo mà còn giàu
lên từ trên chính những mảnh vườn, đồi nương của mình.
Năm
2009, anh Trần Ngọc Quỳ, dân tộc Tày ở thôn Bản Khéo, xã Lâm Thượng,
huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái tham gia mô hình trồng tre măng mai, với
trên 1000 gốc tre măng mai. Sau 5 năm, những gốc tre của gia đình anh đã
cho thu nhập. Vụ măng năm vừa qua gia đình anh thu được hơn 12 tấn măng
tươi, tương đương trên 1,2 tấn măng khô, đem về trên 120 triệu đồng.
Ngoài trồng măng, gia đình anh còn chăn nuôi thêm lợn, gà, đào ao thả
cá…mỗi năm cũng đem lại nguồn thu cho gia đình vài chục triệu đồng. Từ 2
bàn tay trắng, gia đình anh chị giờ đã làm được một ngôi nhà sàn khang
trang, mua sắm được đồ dùng, phương tiện đi lại như xe máy, ti vi, tủ
lạnh….
Anh
Trần Ngọc Quỳ cho biết: “Lúc chưa trồng cây măng mai, kinh tế gia đình
gặp nhiều khó khăn. Từ khi tham gia trồng và có nguồn thu từ cây tre
măng mai cuộc sống gia đình đã thay đổi nhiều và gia đình tôi sẽ tiếp mở
rộng trồng loại cây này vì có giá trị kinh tế cao”.
Cũng
giống như anh Quỳ, khi được chính quyền địa phương vận động trồng cây
tre măng mai, một loại cây bản địa có giá trị kinh tế cao, chị Sầm Thị
Thường, dân tộc Tày ở Bản Khéo, xã Lâm Thượng nhận thấy gia đình sẵn có
đất đồi, vốn đầu tư ban đầu không cao, dễ chăm sóc, hầu như không bệnh
tật nên đã tham gia trồng 600 gốc măng. Sau 5 năm trồng, từ cung cấp
giống, thu gom măng của bà con trong bản để bán ra thị trường bên ngoài,
mỗi năm gia đình chị có thu nhập khoảng 150 đến 200 triệu đồng. Và cũng
từ cây măng đã giúp chị trở thành một nông dân nắm vững kỹ thuật chăm
sóc, khai thác, chế biến cây măng như người được đào tạo bài bản.
Chị
Sầm Thị Thường cho biết: “Trồng cây măng tốt nhât là vào mùa xuân vì
đây là thời điểm lượng mưa đều. Lúc trồng, đối với đất bằng thì nên bón
lót thêm phân NPK hoặc phân chuồng, mỗi gốc cách gốc khoảng 5 mét; nếu
đất tốt thì khoảng cách này có thể xa hơn. Khi thu hoạch, mỗi gốc phải
để 2 đến 3 củ măng phát triển thành cây cho sang năm mọc măng tiếp. Và
sau lấy măng, tầm tháng 9, tháng 10 phải tỉa bớt những cây nhỏ ở gốc để
dinh dưỡng tập trung cho cây to sang năm mọc măng”.
Không
chỉ gia đình anh Quỳ, chị Thường mà nhiều hộ gia đình trong xã đã có
kinh tế khá giả nhờ trồng cây măng mai. Hiện toàn xã có khoảng 80 ha,
tập trung chủ yếu ở Bản Khéo, Nặm Chắn và Nặm Chọ, với tổng sản lượng
hàng năm khoảng gần 400 tấn măng tươi. Đối với thị trường tiêu thụ hiện
nay, các tiểu thương trong tỉnh và một số tỉnh lân cận đặt mua tại nhà
ngay từ đầu vụ với giá khoảng 100 đến 120 nghìn/1kg măng khô.
Để
đảm bảo giá cả, thị trường ổn định trước mắt chính quyền địa phương vận
động bà con nhân dân tuân thủ đúng các quy trình làm khô, không sử dụng
thuốc bảo quản, chất tẩm màu làm mất hình ảnh, chất lượng và thị
trường. Về lâu dài chính quyền địa phương đang tính đến xây dựng lò sấy,
để giải quyết được tình trạng hiện nay hầu hết bà con dựa vào thời tiết
để làm khô nên thường gặp nhiều bất lợi.
Nói
về đống góp của cây măng mai đối với kinh tế của địa phương. Ông Trần
Thanh Trúc, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Lâm Thượng, huyện Lục Yên, tỉnh
Yên Bái cho biết: “Cây măng mai hiện nay là một trong những cây trồng có
giá trị kinh tế rất cao, bình quân mỗi búi cho thu hoạch từ 2 tạ đến 3
tạ măng tươi. Sau đó, phơi khôi bán ra thị trường với giá trên 100.000
đồng/kg, từ đó nâng cao mức thu nhập gia đình của địa phương”.
Mô
hình trông tre măng mai ở xã Lâm Thượng, huyện Lục Yên tỉnh Yên Bái đã
và đang góp phần nâng cao mức sống của người dân địa phương. Nếu như
được chính quyền các cấp quan tâm đảm bảo thị trường ổn định lâu dài thì
đây sẽ là một loại cây trồng không những xoá đói giảm nghèo riêng ở Lâm
Thượng, mà còn có thể mở rộng ra cho nhiều địa phường của vùng Tây Bắc
có địa hình, thổ nhưỡng tương tự./.
Rộn ràng Khu công nghiệp phía Nam
Không khí tết vẫn còn vương trên mỗi phố phường, bản làng,
trên các ngả đường, tuyến phố người xe tấp nập đi chùa cầu may thì ở các
công ty, nhà máy trong Khu công nghiệp (KCN) phía Nam đã rộn rã tiếng
máy. Trên đường vào KCN, xe lớn, xe nhỏ nối đuôi nhau nhập, xuất hàng
hoá, từng tốp công nhân hối hả vào ca…
Công nhân Công ty cổ phần Dinh dưỡng Việt Tín vận chuyển hàng hóa đi tiêu thụ.
Tại
Nhà máy Chế biến thức ăn gia súc thuộc Công ty cổ phần dinh dưỡng Việt
Tín, hàng trăm công nhân đang hối hả vào ca sản xuất, phía ngoài sân một
tốp hơn chục công nhân đang vận chuyển hàng trăm tấn thức ăn đưa về các
đại lý tiêu thụ.
Anh
Bùi Minh Hải - Quản lý sản xuất Công ty cho biết: “Kế hoạch năm 2013
Công ty phấn đấu sản xuất trên 25 ngàn tấn sản phẩm thức ăn gia súc các
loại. Vì vậy, ngay từ mùng 6 tết, Công ty đã tổ chức gặp mặt 90 anh em
cán bộ công nhân viên và đi vào sản xuất ngay. Qua 7 ngày đi vào hoạt
động đã sản xuất được hơn 300 tấn sản phẩm. Từ đầu năm đến nay, Công ty
đã sản xuất và tiêu thụ được 1.500 tấn sản phẩm. Với tốc độ sản xuất như
hiện nay cùng với có sự chuẩn bị sẵn nguồn nguyên liệu chắc chắn Công
ty sẽ hoàn thành kế hoạch cả năm”.
Anh
Hoàng Văn Dũng - công nhân Công ty đang đóng bao sản phẩm phấn khởi cho
biết: “Sản xuất ở đây tuy vất vả nhưng lại có việc làm và thu nhập ổn
định, lương bình quân đạt 5 triệu đồng/người/tháng, có nhiều người đạt
hơn 7 triệu đồng/tháng. Bên cạnh đó, mọi chế độ của người lao động như
bảo hộ lao động, tiền ăn ca, chế độ bảo hiểm xã hội, y tế được đảm bảo.
Cuối tháng, cuối năm phân xưởng nào làm tốt nhiệm vụ còn được thưởng
theo giá trị công việc nên anh em công ty rất phấn khởi”.
Tiếp
đó, chúng tôi đến Công ty An Phát chuyên sản xuất hạt phụ gia CaCO3
cũng một không khí làm việc rất nhộn nhịp. Tuy mới đi vào sản xuất được
hơn 2 năm nhưng nhờ có chiến lược kinh doanh, tiềm lực tài chính ổn định
và đội ngũ cán bộ, công nhân lành nghề nên việc sản xuất kinh doanh khá
thuận buồm xuôi gió. Năm 2012 sản xuất và tiêu thụ được trên 9.600 tấn
sản phẩm doanh thu đạt hàng chục tỷ đồng, đời sống của gần 100 cán bộ,
công nhân tương đối ổn định với mức thu nhập bình quân 4,5 triệu
đồng/người/tháng.
Dẫn
chúng tôi đi thăm nhà máy, anh Dương Huy Bình - Phụ trách sản xuất,
kinh doanh cho biết: “Ra quân ngày mùng 4 tết, bình quân mỗi ngày sản
xuất được 33 tấn sản phẩm. Năm 2013, Công ty dự kiến sản xuất trên 20
ngàn tấn sản phẩm. Để hoàn thành kế hoạch, Công ty đã và đang đầu tư lắp
đặt thêm 2 dây chuyền và sẽ đi vào sản xuất trong cuối tháng 3 này.
Ngoài việc sản xuất kinh doanh hiệu quả, Công ty cũng luôn chú trọng,
quan tâm đào tạo và chăm lo các chế độ chính sách cho người lao động
được đảm bảo để mỗi công nhân luôn nghĩ mình là một thành viên trong
ngôi nhà lớn An Phát”.
Cũng
như Công ty cổ phần dinh dưỡng Việt Tín, Công ty An Phát và các công
ty, nhà máy, doanh nghiệp nằm trong KCN phía Nam đã đi vào sản xuất ổn
định ngay từ những ngày đầu năm. Ông Trần Ngọc Dũng -Trưởng phòng quản
lý sản xuất KCN cho biết: “Với diện tích 532 ha, cùng với kết cấu hạ
tầng như: điện, đường, nước, bưu chính viễn thông... khá hoàn chỉnh, nhờ
vậy đến nay đã hút được 17 dự án với tổng vốn đầu tư gần 2 ngàn tỷ đồng
và đã có 12 dự án đã đi vào sản xuất, thu hút 750 lao động.
Các
dự án đã đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh khá hiệu quả như: Nhà máy
nghiền Felspat thuộc Công ty cổ phần khoáng sản VPG, công suất 100 ngàn
tấn sản phẩm/năm, thu hút 50 lao động; Nhà máy nghiền bột đá CaCO3
thuộc Công ty Cổ phần Mông Sơn, công suất 80 ngàn tấn sản phẩm/năm, thu
hút 120 lao động; Nhà máy chế biến đá vôi trắng thuộc Công ty Phát triển
số 1-TNHH 1 thành viên Hải Dương, công suất 250 ngàn tấn sản phẩm/năm,
thu hút 160 lao động...
Bước
sang năm 2013 này, nền kinh tế vẫn tiếp tục khó khăn, thị trường hàng
hoá biến động, giá cả nguyên vật liệu đầu vào tăng cao nhưng các nhà
máy, công ty trong các KCN đã nỗ lực sản xuất, kinh doanh do đó giá trị
sản xuất tháng 1 đạt 100 tỷ đồng, chiếm 20% giá trị sản xuất công nghiệp
toàn tỉnh”.
Năm
2013, được dự báo vẫn là một năm đầy khó khăn, thách thức với các nhà
đầu tư, các doanh nghiệp sản xuất nhưng với sự quyết tâm và những giải
pháp, chiến lược trong sản xuất, kinh doanh cùng khí thế ra quân ngay từ
những ngày đầu năm chắc chắn các doanh nghiệp Yên Bái sẽ vượt qua để
đảm bảo sản xuất kinh doanh hiệu quả.
Đồng chí Phạm Duy Cường – Chủ tịch UBND tỉnh Yên Bái làm việc với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
CTTĐT – Chiều ngày 5/3/2013, đồng chí Phạm Duy Cường – Phó
Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Yên Bái đã có buổi làm việc với Sở
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về thực hiện kế hoạch năm 2013, một
số đề án và công tác triển khai đề án giao rừng, cho thuê rừng gắn với
giao đất, cho thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm
2013.
Đồng chí Phạm Duy Cường phát biểu chỉ đạo tại hội nghị.
Cùng dự buổi làm việc có các đồng chí lãnh đạo các sở, ngành, lãnh đạo UBND các huyện, thị, thành phố.
Theo
báo cáo của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tính đến ngày
4/3/2013 toàn tỉnh đã cấy được 17.703 ha lúa vụ Xuân đạt 98,7% kế hoạch,
trong đó vùng thấp đạt 99,7% kế hoạch, vùng cao đạt 91% kế hoạch. Đã
trồng được 2.623,3ha, đạt 21% kế hoạch. Tính đến nay, toàn tỉnh đã thu
hái ước đạt 3.000 tấn chè, chế biến được 650 tấn chè khô các loại.
Các
ngành chức năng của tỉnh đã thẩm định và cấp giấy chứng nhận đầu tư cho
04 doanh nghiệp thuê đất, thuê rừng với diện tích là 12.200 ha, hiện
nay đang rà soát, kiểm tra 181.604,3 ha rừng sản xuất hiện có tại các
huyện. Đã có 4/9 huyện xây dựng xong Đề án giao rừng, cho thuê rừng gắn
với giao đất, cho thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp
huyện. Các đề án này đã được Hội đồng nhân dân huyện thông qua và đang
trình UBND tỉnh phê duyệt.
Tại
buổi làm việc, lãnh đạo UBND các huyện, thị xã, thành phố đã phân tích
những thuận lợi, khó khăn trong quá trình triển khai Đề án giao rừng,
cho thuê rừng gắn với giao đất, cho thuê đất và cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất sản xuất lâm nghiệp, công tác phòng chống bệnh dại,
sản xuất vụ đông xuân và chăn nuôi trâu bò…
Phát
biểu tại buổi làm việc, đồng chí Phạm Duy Cường - Phó Bí thư Tỉnh ủy,
Chủ tịch UBND tỉnh đã ghi nhận sự đóng góp của ngành nông nghiệp vào
thành công chung của tỉnh trong năm 2012. Tuy nhiên đồng chí cũng nêu
rõ, trong thời gian vừa qua, công tác quy hoạch của ngành chưa sát với
thực tiễn, đặc biệt là quy hoạch sinh vật cảnh, cây quế Văn Yên và cây
ngô hàng hóa; Ngành chưa tham mưu với tỉnh để giải quyết kịp thời, dứt
điểm một số vấn đề đang vướng mắc thuộc phạm vi quản lý.
Về
Đề án giao rừng, cho thuê rừng gắn với giao đất, cho thuê đất và cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sản xuất lâm nghiệp, đồng chí Phạm Duy
Cường nhấn mạnh đây là đề án có ý nghĩa quan trọng đối với tỉnh Yên
Bái, vì vậy các ngành, các cấp phải tập trung các nguồn lực để triển
khai đề án đạt kết quả cao nhất, trong đó chú trọng vào công tác tuyên
truyền để nâng cao nhận thức của người dân về đề án này.
Bên
cạnh đó, ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần tiến hành điều
chỉnh, bổ sung một số quy hoạch chưa hợp lý như quy hoạch vùng chè, quế,
sơn tra, cao su... Nhanh chóng hoàn chỉnh Đề án phát triển chè tỉnh Yên
Bái, Đề án phát triển chăn nuôi đàn gia súc chính theo hướng sản xuất
hàng hóa giai đoạn 2013-2015. Tập trung xây dựng và phát triển các làng
nghề nhằm nâng cao đời sống của nhân dân gắn với xây dựng nông thôn
mới. Trong năm 2013 sẽ xây dựng 01 xã hoàn thành tiêu chí xây dựng nông
thôn mới để rút kinh nghiệm trên toàn tỉnh. Các ngành
Tài chính, Kế hoạch - Đầu tư bố trí vốn hợp lý cho các công trình nước
sạch và vệ sinh môi trường cho 11 xã thí điểm xây dựng nông thôn mới.
Về
nhiệm vụ trong thời gian tới, đồng chí Chủ tịch UBND tỉnh yêu cầu ngành
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần quản lý tốt chất lượng giống,
đảm bảo sản xuất đúng khung thời vụ, tăng cường kiểm soát dịch bệnh, làm
tốt công tác thanh tra, kiểm tra tại các địa phương. Quan tâm chỉ đạo
sản xuất vụ Xuân, công tác phòng dại, phòng dịch bệnh trên phạm vi toàn
tỉnh…
Thành phố Yên Bái đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng đường tránh ngập
Đến thời điểm này, khu tái định cư (TĐC) số 1 tại phường
Đồng Tâ, thành phố Yên Bái đã thi công xong mặt bằng nhưng cơ sở hạ tầng
như đường giao thông nội bộ, cống thoát nước, hệ thống điện chưa hoàn
thành.
Đối
với tuyến chính hiện còn 13 hộ chưa nhận tiền bồi thường hỗ trợ, hiện
chủ đầu tư đang tiếp tục thi công khu TĐC số 4 và số 5 tại xã Văn Phú và
xã Phúc Lộc, 37 hộ gia đình nằm trên tuyến tại khu vực xã Phúc Lộc đã
nhận tiền bồi thường hỗ trợ tái định cư.
Đoạn
tuyến chạy qua xã Văn Phú đã có quyết định phê duyệt mức bồi thường hỗ
trợ cho 122 hộ gia đình với tổng kinh phí gần 14,5 tỷ đồng, đến nay đã
thực hiện chi trả xong toàn bộ kinh phí bồi thường cho các hộ trong diện
thu hồi đất. Riêng đối với đoạn tuyến qua xã Tân Thịnh, tại khu TĐC 2A
đã có 52 hộ gia đình và 59 ngôi mộ được phê duyệt kinh phí bồi thường.
Xã
Tân Thịnh có 288 hộ nằm trong diện thu hồi đất để thi công tuyến chính
và các nút giao, hiện đã có quyết định phê duyệt phương án bồi thường
cho 152 hộ, song công tác giải phóng mặt bằng hỗ trợ TĐC ở xã Tân Thịnh
đang gặp khó khăn khi giấy tờ pháp lý về đất đai trong trao tặng, mua
bán chuyển nhượng, đổi đất, chỉnh lý loại đất hiện trạng đang sử dụng
của người dân chưa hoàn thiện.
Thành
phố cũng đề nghị chủ đầu tư đẩy nhanh tiến độ thi công các khu TĐC trên
tuyến để người dân sau thu hồi đất sớm ổn định cuộc sống. Đồng thời
tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến các chế độ, chính sách đến các
hộ dân trong diện phải thu hồi đất, vận động bà con chấp hành nghiêm
những quy định trong giải phóng mặt bằng hỗ trợ TĐC.
Sở NN&PTNT: Đề xuất, trình HĐND tỉnh 2 Đề án phát triển nông nghiệp
CTTĐT - Hiện nay Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đang
hoàn thiện 02 Đề án trình Hội đồng nhân dân tỉnh Yên Bái thông qua vào
kỳ họp HĐND lần thứ 7 khoá XVII vào tháng 7 năm 2013.
Yên Bái phấn đấu đạt 95.000 tấn chè búp tươi vào năm 2015.
Đề
án phát triển chè tỉnh Yên Bái giai đoạn 2013 - 2015 được thông qua sẽ
đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh chè bền vững, coi trọng chất lượng, lấy
nâng cao chất lượng sản xuất, chế biến chè là khâu đột phá để nâng cao
giá trị và hiệu quả. Quy hoạch vùng chè nguyên liệu gắn với cơ sở chế
biến, liên kết chặt chẽ giữa người sản xuất chè búp với cơ sở chế biến,
tích cực vận động nhân dân và có chính sách cụ thể hỗ trợ trồng thay
thế, trồng mới diện tích chè có năng suất, chất lượng thấp. Xây dựng
thương hiệu và quảng bá sản phẩm chè Yên Bái.
Ổn
định diện tích chè đến năm 2015 khoảng 11.500 ha với năng suất bình
quân đạt 88,6 tạ/ha; sản lượng chè búp tươi đạt 95.000 tấn. Từ 2013-2015
trồng thay thế, trồng mới 1.800 ha bằng giống chè có năng suất, chất
lượng cao. Rà soát, sắp xếp lại 104 cơ sở sản xuất chế biến kinh doanh
chè, sản phẩm chè chế biến các loại đạt khoảng 20.000 tấn, xuất khẩu
trực tiếp hoặc uỷ thác khoảng 30% lượng chè chế biến; nâng giá chè thành
phẩm trung bình lên 1,7 USD/01 kg vào năm 2015. Tăng thu nhập cho người
trồng chè gấp 1,84 lần so với năm 2010. Hỗ trợ đầu tư đổi mới công
nghệ, thiết bị, chuyển giao công nghệ cho các cơ sở sản xuất, chế biến
chè.
Đề
án phát triển chăn nuôi đàn gia súc chính theo hướng sản xuất hàng hoá
tỉnh Yên Bái giai đoạn 2013-2015 nhằm mục tiêu phấn đấu đạt mức tăng
trưởng bình quân của đàn gia súc chính 3%/năm trở lên, đạt 630.202 con
vào năm 2015; Sản lượng thịt hơi xuất chuồng các loại đạt 32.000 tấn
(tăng 4% năm), trong đó sản lượng thịt đàn gia súc chính đạt 28.500 tấn;
giá trị sản xuất chăn nuôi đạt 1.200 tỷ đồng. Từng bước nâng dần tỷ
trọng giá trị sản xuất chăn nuôi trong cơ cấu ngành nông nghiệp đạt 26%
năm 2015.
CTTĐT - Ngày 7/3/2013, thành phố Yên Bái tổ chức hội nghị triển khai 7 dự án chỉnh trang đô thị năm 2013.
Trung tâm thành phố Yên Bái
Trong
năm nay, thành phố Yên Bái triển khai 7 dự án chỉnh trang đô thị bao
gồm: dự án cải tạo hành lang hè phố đường Yên Ninh, đoạn từ bệnh viện đa
khoa tỉnh Yên Bái đến ngã tư Nam Cường; Dự án cải tạo hành lang hè phố
đường Lý Thường Kiệt; Dự án cải tạo hành lang hè phố tuyến quốc lộ 37,
đoạn từ cầu Yên Bái đến UBND xã Hợp Minh; Dự án cải tạo cây xanh hè phố
trên toàn địa bàn; Dự án nâng cấp đường nội bộ công viên Yên Hoà và dự
án xây dựng cống thoát nước đường Hoàng Hoa Thám, khu vực bến xe khách
Yên Bái.
Các
dự án này được triển khai từ ngày 15/3/2013, phấn đấu sớm hoàn thành
đưa vào sử dụng góp phần nâng cao bộ mặt đô thị Yên Bái.
Tại
hội nghị, lãnh đạo Đảng uỷ, UBND các xã, phường, đại diện tổ trưởng,
trưởng thôn nhân dân trong phạm vi tác động của dự án đã phát biểu tham
gia nhiều ý kiến đóng góp. Đa số các ý kiến đều bày tỏ niềm tin, phấn
khởi khi thành phố triển khai các dự án chỉnh trang đô thị này. Ngay sau
hội nghị triển khai cấp thành phố, các thôn, tổ nhân dân trong vùng dự
án triển khai các nội dung có liên quan để toàn thể nhân dân được biết,
ủng hộ, phối hợp thực hiện./.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về Đề án giao rừng, cho thuê rừng gắn với giao đất, cho thuê đất cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sản xuất lâm nghiệp tỉnh Yên Bái giai đoạn 2011-2015
CTTĐT- Thời gian qua, công tác triển khai Đề án giao rừng,
cho thuê rừng gắn với giao đất, cho thuê đất cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất sản xuất lâm nghiệp giai đoạn 2011 - 2015 còn gặp những khó
khăn. Vì vậy tỉnh Yên Bái đang tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, đồng thời
tích cực triển khai và thực hiện có hiệu quả các nội dung đã đề ra
trong thời gian tới.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về Đề án trên tất cả các phương tiện thông tin đại chúng.
Hiện
nay Sở Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp với các ngành của tỉnh thẩm định
và cấp giấy chứng nhận đầu tư cho 4 doanh nghiệp thuê đất, thuê rừng
trong Đề án theo chỉ đạo của Chủ tịch UBND tỉnh. Trong đó, Công ty Cổ
phần Giấy Miền Bắc được khảo sát, lập dự án thuê đất, thuê rừng với diện
tích khoảng 4.000 ha. Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu lâm nghiệp Yên Bái
được thuê 4.000 ha để tổ chức trồng rừng nguyên liệu phục vụ Nhà máy
chế biến gỗ ván thanh, ván MDF tại Yên Bái. Công ty Cổ phần Vĩnh Sơn
được thuê 4.000 ha đất rừng để tổ chức trồng rừng nguyên liệu phục vụ
Nhà máy chế biến tại Yên Bái. Công ty xây dựng Hà Nội thuê đất trồng
rừng kinh tế tại huyện Văn Chấn với diện tích là 200 ha.
Đến
nay 9/9 huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh đã thành lập Ban chỉ
đạo thực hiện đề án giao rừng, cho thuê rừng cấp huyện. Những đề án này
đã được HĐND huyện thông qua và đang trình UBND tỉnh phê duyệt. Cụ thể,
đến nay đã có 04 huyện là Trấn Yên, Mù Cang Chải, Văn Yên, Văn Chấn đã
hoàn thành đề án giao rừng, cho thuê rừng cấp huyện, Hội đồng nhân dân
huyện thông qua và đang trình UBND tỉnh phê duyệt.
Về
việc xây dựng phương án giao rừng cấp xã, đến thời điểm này trên địa
bàn tỉnh đã có 07 xã đang tiến hàng xây dựng phương án cụ thể theo các
nội dung của đề án. Cụ thể, xã Y Can (huyện Trấn Yên) và xã Vũ Linh
(huyện Yên Bình) đã xây dựng xong phương án giao rừng, cho thuê rừng và
được thông qua tại HĐND cùng cấp; xã Minh Xuân (huyện Lục Yên), xã Quang
Minh (huyện Văn Yên), xã Nghĩa Sơn (huyện Văn Chấn), xã Phình Hồ (huyện
Trạm Tấu), xã Púng Luông (huyện Mù Cang Chải) đã thực hiện công tác
tuyên truyền đến các hộ gia đình, cộng đồng dân cư về công tác giao
rừng, cho thuê rừng và đang tiến hành xây dựng phương án chi tiết trình
HĐND xã thông qua trong Quý I năm 2013.
Tuy
nhiên, trong quá trình triển khai Đề án, việc xây dựng các đề án cấp
huyện và phương án cấp xã của các địa phương còn chậm. Kinh phí thực
hiện đề án và kinh phí cho thực hiện rà soát diện tích 181.604,3 ha đất
rừng chưa được cấp phát cũng ảnh hưởng đến tiến độ triển khai Đề án. Một
số chính quyền địa phương chưa thực sự vào cuộc. Diện tích dự kiến cho
thuê, sau khi đoàn công tác cùng với các doanh nghiệp khảo sát tại thực
địa một số nơi đã bị người dân tranh thủ lợi dụng lấn chiếm. Diện tích
đất trống dự kiến cho thuê để trồng rừng, các địa phương báo cáo sau khi
rà soát giảm so với dự kiến vì diện tích này người dân địa phương tự
nhận là đã trồng rừng vào đó, vì thế rất khó cho việc thoả hiệp xử lý
tài sản trên đất để tiến hành cho thuê theo quy định. Diện
tích rừng có vị trí thuận lợi gần nhà, gần đường giao thông, độ dốc
thấp và rừng có trữ lượng lớn thường được nhiều người xin nhận, vì thế
khó khăn cho việc phân chia và lập phương án.
Trong
thời gian tới tỉnh Yên Bái sẽ tiếp tục tuyên truyền sâu rộng trên các
phương tiện thông tin đại chúng về tiến độ triển khai Đề án. Đài
Truyền hình tỉnh, Báo Yên Bái xây dựng chuyên trang, chuyên mục về
triển khai Đề án, Cổng TTĐT tăng cường cập nhật thông tin lên chuyên
trang Giao đất, giao rừng, tiếp nhận, chuyển đến các cơ quan liên quan
để trả lời các câu hỏi của nhân dân về triển khai Đề án. Theo
chỉ đạo của Chủ tịch UBND tỉnh, thời gian tới sẽ đưa ra xét xử nghiêm
minh các hành vi có tính chất lấn chiếm đất, rừng và cản trở công tác
triển khai Đề án giao rừng cho thuê rừng.
Bên
cạnh đó, sẽ tiếp tục hướng dẫn, đôn đốc các địa phương hoàn chỉnh đề án
giao rừng, cho thuê rừng cấp huyện, thẩm định và trình UBND tỉnh phê
duyệt trong Quý I năm 2013. Kiểm tra tiến độ xây dựng Đề án cấp huyện,
phương án các xã điểm và kết quả thực hiện công tác rà soát diện tích
đất rừng chưa giao, cho thuê trong đề án. Chỉ đạo, giám sát xã Vũ Linh,
xã Y Can hoàn thiện phương án giao rừng, cho thuê rừng gắn liền với giao
đất, cho thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong Quý I
năm 2013 và tiến hành thực hiện trong năm 2013 theo kế hoạch.
Tổ
chức rút kinh nghiệm việc giao rừng, cho thuê rừng gắn liền với giao
đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp tại
02 xã Vũ Linh và xã Y Can để triển khai trên diện rộng trên địa bàn toàn
tỉnh. Tiếp tục tiến hành kiểm tra, rà soát về thực trạng quản lý diện
tích rừng chưa giao, cho thuê trong đề án hiện nay đang thuộc nhà nước
quản lý trên địa bàn tỉnh theo kết luận của đồng chí Chủ tịch UBND tỉnh.
Yên Bái là một tỉnh thuộc vùng trung du và miền núi phía Bắc Việt Nam.
Hành chính
Yên Bái bao gồm 01 thành phố, 01 thị xã và 07 huyện:- Thành phố Yên Bái, được nâng cấp từ thị xã ngày 11 tháng 01 năm 2002;
- Thị xã Nghĩa Lộ, thành lập ngày 15 tháng 05 năm 1995;
- Huyện Lục Yên
- Huyện Mù Cang Chải
- Huyện Trấn Yên
- Huyện Trạm Tấu
- Huyện Văn Chấn
- Huyện Văn Yên
- Huyện Yên Bình
Địa hình
Yên Bái có diện tích tự nhiên 6.882,9 km², nằm trải dọc đôi bờ sông Hồng.Địa hình Yên Bái có độ dốc lớn, cao dần từ đông sang tây, từ nam lên bắc, độ cao trung bình 600 mét so với mực nước biển và có thể chia làm hai vùng: vùng thấp ở tả ngạn sông Hồng và lưu vực sông Chảy mang nhiều đặc điểm của vùng trung du; vùng cao thuộc hữu ngạn sông Hồng và cao nguyên nằm giữa sông Hồng và sông Đà có nhiều dãy núi.
Sông ngòi
Đèo Khau Phạ trên Quốc lộ 32
Khí hậu
Yên Bái có khí hậu đặc trưng của khí hậu cận nhiệt đới ẩm của miền bắc Việt Nam, mùa hè nóng ẩm mưa nhiều, mùa đông phi nhiệt đới lạnh và khô.Rừng
Yên Bái có rừng nhiệt đới, á nhiệt đới và ôn đới trên núi cao. ở đây có gỗ quý pơ-mu sẽ tốt cho sức khỏe và đuổi muỗi nếu làm giường.Khoáng sản
Tài nguyên khoáng sản trữ lượng khá lớn như đá đỏ, sắt, thạch anh, đá fenspat, đá trắng Đông Nam Á.Nông nghiệp
Đất nông nghiệp chiếm gần 10% diện tích tự nhiên, trong đó có cánh đồng Mường Lò rộng 2.300 ha nổi tiếng vùng Tây Bắc với nhiều sản vật có giá trị như: chè, quế, gạo nếp Tú Lệ, cam Lục Yên, nhãn Văn Chấn.Dân tộc
Hiện nay, toàn tỉnh có 740.905 người (điều tra dân số ngày 01/04/2009, gồm 30 dân tộc chung sống. Các dân tộc ở Yên Bái sống xen kẽ, quần tụ ở khắp các địa phương trên địa bàn của tỉnh với những bản sắc văn hoá phong sắc. chanLịch sử
Yên Bái là một điểm sinh tụ của người Việt cổ, có nền văn hoá nhân bản, thể hiện ở những di vật, di chỉ phát hiện ở hang Hùm (Lục Yên), công cụ bằng đá ở Thẩm Thoóng (Văn Chấn), thạp đồng Đào Thịnh, Hợp Minh (Trấn Yên), trống đồng Minh Xuân (Lục Yên). Nhiều di chỉ khảo cổ được phát hiện, như đền, tháp, khu di tích lịch sử.Được thành lập năm 1900, tỉnh Yên Bái được biết đến qua cuộc Khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc Dân Đảng vào thượng tuần tháng 2 năm 1930. Lãnh tụ là Nguyễn Thái Học đã bị thực dân Pháp bắt và đem hành quyết bằng máy chém ở Yên Bái cùng 12 đồng đội vào ngày 17 tháng 6 năm 1930.
Giao thông
Đường vào huyện Trạm Tấu
Nhà thờ Nghĩa Lộ
Đặc sản, lâm thổ sản
- Gạo nếp Tan (Tú Lệ, Văn Chấn)
- Xôi ngũ sắc (Nghĩa Lộ và Văn Chấn)
- Xôi tam sắc (Nghĩa Lộ và Văn Chấn)
- Táo mèo (Mù Căng Chải và Trạm Tấu)
- Chè tuyết (Suối Giàng, Văn Chấn)
- Bưởi Đại Minh
- Cam sành (Lục Yên)
- Nhãn (Văn Chấn)
- Khoai sọ (Lục Yên)
- Quế (Văn Yên)
- Lạp cá (Mường Lò)
- Thịt chó (thành phố Yên Bái)
- Thịt trâu gác bếp (Yên Bái)
- Cá (hồ thủy điện Thác Bà)
- Cá tiểu bạc (hồ thủy điện Thác Bà)
- Dế mèn (Mường Lò)
- Pơ mu
- Cải mèo
Du lịch
- Ruộng bậc thang Mù Căng Chải
- Thủy điện Thác Bà
- Chợ đá quý Lục Yên
- Đền Tuần Quán
- Cánh đồng Mường Lò
- Thác Mơ
- Điểm du lịch Hồ Thác Bà
Giáo dục
Trong những năm qua, sự nghiệp giáo dục và đào tạo của tỉnh có nhữngì chuyển biến tích cực và đạt được những kết quả quan trọng. Hệ thống giáo dục và đào tạo được củng cố, phát triển. Quy mô giáo dục tăng nhanh, các cấp học, ngành học từ giáo dục mầm non đến giáo dục đại học, từ giáo dục chính quy đến giáo dục thường xuyên dần hoàn thiện. Công tác đào tạo đã có một số chuyển biến tích cực, đáp ứng một phần nguồn nhân lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Hiện nay toàn ngành đang tích cực triển khai thực hiện Nghị quyết 10-NQ/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh ban hành Nghị quyết về đẩy mạnh phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2009 - 2015. Một số trường học có uy tín tại Yên Bái- Trường CĐSP Yên Bái
- Trường THPT chuyên Nguyễn Tất Thành
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét