Thứ Năm, 14 tháng 3, 2013

lan hồ điệp , địa lan shop cửa hàng bán ở tại quảng ngãi , lan ho diep dia lan quang ngai

QUẢNG NGÃI - quê hương của nhà cách mạng, nhà văn hóa lớn Phạm Văn Đồng - là một mảnh đất giàu truyền thống yêu nước, hiếu học, đoàn kết, lao động cần cù, sáng tạo. Tiếp xúc với tiến trình phát triển của đất Quảng Ngãi theo suốt chiều dài lịch sử, người ta không khỏi ngạc nhiên bởi những đóng góp của mảnh đất này vào sự phát triển kinh tế xã hội - văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Nơi đây các nhà khảo cổ học đã tìm được nhiều hiện vật về thời kỳ đồ đá, chứng tỏ mảnh đất này từng có con người sinh tụ và đã có sự hiện diện của một nền văn minh từ thời thượng cổ. Quảng Ngãi là nơi phát hiện đầu tiên, cũng là cái nôi của nền văn minh - văn hóa Sa Huỳnh, có niên đại cách nay 2.500 - 3.000 năm, với những di chỉ hết sức phong phú ở Sa Huỳnh, Thạnh Đức,  Kế tiếp Văn hóa Sa Huỳnh là Văn hóa Chămpa với kiến trúc thành Châu Sa, tháp Chánh Lộ quy mô, bề thế, mang một phong cách riêng, cùng nhiều di chỉ, di tích khác có niên đại cách đây hàng ngàn năm.
Kế sau Chămpa, văn hóa Việt trở thành dòng chủ đạo của nền văn hóa đa dân tộc, tiếp tục phát triển từ thế kỷ XV trở về sau. Trong sự giao thoa, chuyển tiếp với Văn hóa Chămpa, sự giao lưu văn hóa với các dân tộc anh em bản địa miền núi là các  pha trộn với người Hoa và một số dân tộc khác, đã nhào nặn nơi đất này một sắc thái văn hóa khá độc đáo, góp phần làm phong phú cho nền văn hóa các dân tộc Việt Nam.
Trải qua những thời kỳ lịch sử lâu dài, lam sơn chướng khí bị đẩy lùi, hình thành nên làng mạc, ruộng đồng, kênh mương, nhà cửa, cây đa, bến nước, đình làng, thành quách, phố xá, nơi lưu dấu biết bao mồ hôi, xương máu, nước mắt và nụ cười của lớp lớp thế hệ chủ nhân đất Quảng Ngãi.
Các dân tộc ở Quảng Ngãi là người dân Việt Nam, mang đặc tính chung của người Việt Nam và với sự nỗ lực của mình, người Quảng Ngãi đã góp phần tô đậm những nét đẹp quý báu của người Việt Nam. Qua thử thách trong môi trường tự nhiên và xã hội khắc nghiệt, người Quảng Ngãi đã rèn đúc cho mình thêm sự cứng cỏi, dẻo dai, không chỉ có sức chịu đựng mà còn đủ ý chí, nghị lực, sức sáng tạo để cải biến tự nhiên, xây dựng xã hội ngày càng tốt đẹp hơn.

Ngược dòng lịch sử, vào thế kỷ XVIII, cùng với Bình Định, Quảng Ngãi cũng được xem là cái nôi của phong trào nông dân Tây Sơn ngay từ khi nó mới khởi phát và sau đó đã có những đóng góp không nhỏ vào các cuộc chống ngoại xâm của dân tộc, tạo lập nên các chiến công oanh liệt đánh tan quân Xiêm, đại phá quân Thanh. Quảng Ngãi là quê hương của Trần Quang Diệu, Trương Đăng Đồ và nhiều vị văn thần, võ tướng khác của nhà Tây Sơn. Thời Pháp khởi sự xâm lược Việt Nam, Quảng Ngãi có Hộ đốc Võ Duy Ninh là vị chỉ huy cao cấp đầu tiên của triều đình Huế tử tiết vì thành Gia Định (1859); tiếp sau có Bình Tây Đại nguyên soái Trương Định trở thành một thủ lĩnh nghĩa quân Nam Kỳ chống Pháp. Sau ngày Kinh đô Huế thất thủ (1885), Quảng Ngãi là nơi phất cờ khởi nghĩa Cần vương chống Pháp đầu tiên ở Nam Trung Kỳ, dưới sự lãnh đạo của Lê Trung Đình, Nguyễn Tự Tân và mặc dù bị kẻ địch dìm trong bể máu, phong trào Cần vương ở Quảng Ngãi vẫn liên tục tồn tại hàng chục năm sau. Đầu thế kỷ XX, Quảng Ngãi ghi dấu vào lịch sử Việt Nam bằng những hoạt động mạnh mẽ, tích cực của Duy tân Hội, với các chí sĩ yêu nước Lê Đình Cẩn, Nguyễn Bá Loan, Lê Tựu Khiết… đặc biệt là phong trào cự sưu, khất thuế rầm rộ, có tiếng vang trong khắp cả nước thời bấy giờ. Mặc dù bị kẻ địch đàn áp khốc liệt, nhiều nhà yêu nước và quần chúng bị địch giết hại, tù đày nhưng phong trào yêu nước ở Quảng Ngãi vẫn được tiếp nối với Việt Nam Quang phục Hội, xuất hiện hàng loạt chí sĩ, như Lê Ngung, Nguyễn Thụy, Phạm Cao Chẩm... trong cuộc khởi nghĩa bất thành năm 1916. Các phong trào, hoạt động yêu nước cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX tuy bị đàn áp đẫm máu, khốc liệt, nhưng lòng yêu nước của người dân Quảng Ngãi không vì thế mà bị dập tắt, nguội lạnh; ngược lại, nó đã liên tục bùng lên mạnh mẽ, nhất là sau khi Ðảng Cộng sản Việt Nam rồi Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi được thành lập. Tiếng trống vang động ngay từ năm 1930 đã lan ra toàn tỉnh. Người Bí thư đầu tiên của Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi là đồng chí Nguyễn Nghiêm hy sinh, nhưng cuộc đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc vẫn tiếp tục phát triển. Nhiều cán bộ Quảng Ngãi cũng góp sức cho phong trào cách mạng ở các tỉnh bạn, nhất là các tỉnh Nam Trung Kỳ. Nhiều chiến sĩ cộng sản xuất hiện như những tấm gương sáng ngời trong đấu tranh cách mạng. Quảng Ngãi là nơi bùng nổ của Khởi nghĩa và thành lập Đội du kích - tiền thân của lực lượng vũ trang Liên khu V. Trong Cách mạng tháng Tám, Quảng Ngãi là nơi diễn ra cuộc Tổng khởi nghĩa sớm trong cả nước (14.8.1945) và trở thành cái nôi của vùng tự do Liên khu V trong kháng chiến chống Pháp. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Quảng Ngãi có những sự kiện quan trọng như cuộc Khởi nghĩa  và miền Tây Quảng Ngãi tháng 8.1959, Chiến thắng Ba Gia 31.5.1965, Chiến thắng Vạn Tường 18.8.1965, đánh dấu được những chiến công huy hoàng; đồng thời, Quảng Ngãi cũng là nơi chịu nhiều đau thương mất mát, điển hình là vụ thảm sát Sơn Mỹ 16.3.1968, làm chấn động dư luận thế giới và lương tâm loài người.
Trải qua các cuộc chiến tranh vệ quốc, Quảng Ngãi đã xuất hiện biết bao tấm gương hy sinh vì nước, rèn đúc được nhiều nhà lãnh đạo, nhiều vị tướng lĩnh tài ba thao lược, như Nguyễn Chánh, Trần Văn Trà, Phạm Kiệt, Trần Quý Hai, Trần Nam Trung, Nguyễn Đôn… và nổi bật là đồng chí Phạm Văn Đồng, người hiến dâng cả cuộc đời cho cách mạng và để lại dấu ấn sâu đậm trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam trong suốt nhiều thập niên của thế kỷ XX.
Quảng Ngãi không chỉ nổi bật ở truyền thống yêu nước và cách mạng, mảnh đất này còn nổi bật ở truyền thống lao động sáng tạo, truyền thống văn hóa, tinh thần hiếu học.
Từ nhiều thế kỷ trước, hàng trăm guồng xe nước trên sông Trà Khúc và sông Vệ đã được xây dựng kỳ vĩ giữa non sông, khiến khách qua đây không khỏi ngạc nhiên, khâm phục và liên tưởng đến hình ảnh của sự nhẫn nại, đức cần cù và tiềm năng sáng tạo lớn lao của người dân miền Ấn - Trà. Từ một vùng quê nhiều giông bão, lũ lụt, hạn hán, bằng bàn tay và khối óc của mình, con người nơi đây đã cải biến cả vùng đất thiên nhiên khắc nghiệt này thành nơi đất lành. Sản vật của tự nhiên qua bàn tay con người đã trở thành những món ăn đậm phong vị quê hương. Từ loài cá bống, cá thài bai nhỏ nhoi trên sông Trà mà khiến người nơi xa phải nhớ. Từ loài nhuyễn thể vùng nước lợ mà thành món don đậm hương quê nhà. Quảng Ngãi còn nổi tiếng là xứ sở mía đường, là nơi sản xuất đường phèn, đường phổi, kẹo gương, mạch nha và rất nhiều món ăn đặc sản khác. Ở miền núi thì có ốc đá, cá niêng, có rượu đót, rượu cần. Ở hải đảo thì có hải sâm và nhiều loài hải sản mặn mà vị biển. Đồng bằng có vị ngọt của mía thì miền núi có vị thơm nồng của quế  vị thơm cay của cau  vị ngọt chát của chè  vị ngọt lịm của dứa 
Vượt lên những lo toan cơm áo hằng ngày, người Quảng Ngãi biết tạo dựng nhà rường, nhà lá mái ở miền xuôi, nhà sàn ở miền núi. Những câu ca dao, điệu hò, điệu lý, hát bả trạo, sắc bùa, bài chòi ở miền xuôi; những khúc dân ca, dân nhạc miền núi; những lễ hội… cùng tạo cho cuộc sống người dân đất này thêm phần đáng yêu và mang nhiều dáng nét riêng. Quảng Ngãi là nơi sinh thành của một số nhà thơ, của các nghệ sĩ lớn của đất nước. Quảng Ngãi nổi tiếng là đất học từ xưa với nhiều nhà khoa bảng Nho học, sang thời kỳ Tân học và nền giáo dục cách mạng càng nổi lên truyền thống hiếu học với nhiều người học giỏi, nhiều người trở thành những nhà học thuật nổi tiếng trong nước.
Từ sau khi đất nước hòa bình, thống nhất, xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là từ sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương đổi mới (1986), mở cửa hội nhập khu vực, quốc tế, Quảng Ngãi đã có những bước phát triển căn bản về nhiều mặt. Quảng Ngãi đã hoàn thành công trình đại thủy nông Thạch Nham, tưới cho 50.000ha đất canh tác, tạo nên một sức bật mới cho kinh tế nông nghiệp của tỉnh. Các Khu công nghiệp Quảng Phú, Tịnh Phong hình thành. Đặc biệt, Khu Kinh tế Dung Quất trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung được xây dựng, tạo ra một bước đột phá mới cho kinh tế của tỉnh. Thị xã Quảng Ngãi đã trở thành thành phố trực thuộc tỉnh. Các cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội không ngừng phát triển. Lĩnh vực văn hóa - xã hội cũng có nhiều chuyển biến đi lên. Đời sống mọi mặt của người dân Quảng Ngãi ngày càng được nâng cao.
Sự phát triển sinh động, phong phú về nhiều mặt của Quảng Ngãi trong sự phát triển chung của đất nước là thuận lợi rất lớn nhưng đồng thời tự thân nó cũng là một thử thách không nhỏ đối với người nghiên cứu. Vấn đề đầu tiên mà những người thực hiện tự hỏi là mình nghiên cứu như thế là đã đúng, đầy đủ, tương xứng, phù hợp với hiện thực của Quảng Ngãi trong quá khứ và hiện tại hay chưa? Đây lại là công trình địa chí Quảng Ngãi đầu tiên kể từ sau Cách mạng tháng Tám đến nay. Hiểu được những khó khăn ấy, để các nhà nghiên cứu thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, Hội đồng Biên soạn công trình đã bàn bạc, đề ra nhiều giải pháp, biện pháp thực hiện đúng định hướng và có hiệu quả theo chỉ đạo của Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Hội đồng đã mời Phó Giáo sư Trần Nghĩa, Giáo sư Phan Ngọc Liên làm cố vấn chuyên môn và giúp chỉnh biên toàn bộ công trình; đã mời các nhà nghiên cứu, các cán bộ có chuyên môn vững trong tỉnh và trong nước hình thành các tổ tham gia nghiên cứu, biên soạn các phần của công trình. Một khối lượng công việc rất lớn, nhưng quỹ thời gian và điều kiện lại rất có hạn. Trong hai năm 2004 - 2005, những người thực hiện đã làm việc cật lực để công trình hoàn thành đúng tiến độ, đảm bảo chất lượng. Cho đến cuối năm 2005, công trình đã cơ bản hoàn thành khối lượng như kế hoạch đề ra, kịp ra mắt chào mừng Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lần thứ XVII.
"Địa chí Quảng Ngãi" là một công trình khoa học lớn của tỉnh nhà, với rất nhiều nội dung, trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Đối với loại công trình như thế này, bản thân những người nghiên cứu dù đã hết sức cố gắng vẫn không dám quả quyết rằng mọi thứ đều đã tốt đẹp. Dù đã nghiên cứu nghiêm túc, nhưng cho đến sau khi xuất bản, công trình vẫn rất cần sự chỉnh sửa, bổ khuyết, rất cần sự đóng góp chân thành của độc giả để ngày càng tiến đến hoàn thiện.
Thay mặt Hội đồng Biên soạn công trình, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn Ban Chỉ đạo công trình, cảm ơn các cơ quan, đơn vị, cá nhân, địa phương đã hết sức giúp đỡ, đặc biệt cảm ơn các nhà nghiên cứu đã không quản gian khó, đem hết tâm lực của mình để công trình đạt kết quả cao nhất.

TS. NGUYỄN KIM HIỆU

Chủ tịch Hội đồng Biên soạn

BIÊN NIÊN SỬ QUẢNG NGÃI 1402- 2005 
Năm 1402
- Vua Chămpa là Ba Đích Lại (Jaya Shinhavarman V; cg. Bố Để) nhường đất Chiêm Động (nay là phần lớn tỉnh Quảng Nam) và Cổ Lũy Động (tương đương tỉnh Quảng Ngãi) cho nhà Hồ.
- Nhà Hồ thiết lập các Châu Thăng, Hoa (Chiêm Động), Tư, Nghĩa (Cổ Lũy Động) thuộc lộ Thăng Hoa; phong Nguyễn Cảnh Chân làm An phủ sứ lộ Thăng Hoa; Chế Ma Nô Đà Nan (người Chăm) làm Cổ Lũy huyện thượng hầu, trấn giữ châu Tư, châu Nghĩa.
Năm 1403
- Nhà Hồ tổ chức di dân người Việt từ phía Bắc vào lộ Thăng Hoa.
Năm 1407
- Nhà Minh xâm lược nước Đại Ngu (Đại Việt), nhà Hồ mất ngôi. Vương quốc Chămpa chiếm đất Thăng Hoa.
Năm 1418
- Lê Lợi dấy binh khởi nghĩa chống quân Minh ở Lam Sơn (Thanh Hóa).
Năm 1427
- Cuộc kháng chiến chống quân Minh do Lê Lợi lãnh đạo giành thắng lợi.
Năm 1470
- Vua Chămpa là Bàn La Trà Toàn đánh úp Châu Hóa (nay là tỉnh Thừa Thiên- Huế). Vua Lê Thánh Tông (Đại Việt) xuống chiếu thân chinh đánh Chămpa để thu phục đất cũ.
Năm 1471
- Quân Đại Việt lấy lại Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, chiếm kinh đô Chà Bàn (nay thuộc tỉnh Bình Định) của Vương quốc Chămpa.
- Tháng 6 âm lịch, thiết lập đạo thừa tuyên Quảng Nam (nay là các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định và thành phố Đà Nẵng), gồm 3 phủ Thăng Hoa, Tư Nghĩa, Hoài Nhân. Phủ Tư Nghĩa nay là tỉnh Quảng Ngãi.
Năm 1527
- Mạc Đăng Dung chiếm ngôi nhà Lê, lập nên nhà Mạc.
Năm 1533
- Nguyễn Kim nổi lên chống nhà Mạc, tôn Lê Duy Ninh (cháu xa đời vua Lê Thánh Tông) lên làm vua, lấy hiệu là vua Lê Trung Tông, hình thành cục diện Nam- Bắc triều (Nam: Lê Trung hưng; Bắc: Mạc).
Năm 1545
- Tướng của Nguyễn Kim là Bùi Tá Hán được giao nhiệm vụ trấn thủ Quảng Nam (nay là vùng đất thuộc các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định và thành phố Đà Nẵng).
Năm 1558
- Nguyễn Hoàng nhận nhiệm vụ trấn thủ Thuận Hóa.
Năm 1568
- Trấn thủ Quảng Nam là Bùi Tá Hán qua đời, Nguyễn quận công Nguyễn Bá Quýnh được cử làm tổng binh thay Bùi Tá Hán trấn thủ Quảng Nam.
Năm 1570
- Nguyễn Bá Quýnh được điều chuyển ra Bắc.
- Trấn thủ Thuận Hóa là Nguyễn Hoàng được kiêm trấn thủ  Quảng Nam.
Năm 1602
- Trấn Quảng Nam đổi thành dinh Quảng Nam; phủ Tư Nghĩa (thuộc dinh Quảng Nam) đổi thành phủ Quảng Nghĩa/Ngãi (danh xưng Quảng Ngãi/ Nghĩa lần đầu tiên xuất hiện; phủ Quảng Nghĩa nay là tỉnh Quảng Ngãi).
Năm 1771
-  Khởi nghĩa Tây Sơn.
Năm 1776
- Nhà Tây Sơn đổi tên phủ Quảng Nghĩa thành phủ Hòa Nghĩa.
Năm 1802
- Nguyễn Ánh đánh bại nhà Tây Sơn, lập nên nhà Nguyễn.
Năm 1803
- Nhà Nguyễn đổi phủ Hoà Nghĩa trở lại tên cũ là phủ Quảng Nghĩa.
Năm 1807
- Xã Cù Mông (sau đổi là xã Chánh Mông rồi Chánh Lộ) được chọn làm nơi xây dựng tỉnh Quảng Ngãi.
Năm 1819
- Ông Trương Đăng Quế đỗ Hương tiến (cử nhân), khai khoa cho sĩ tử Quảng Ngãi thời phong kiến.
Năm 1832
- Tỉnh Quảng Nghĩa/Ngãi được thành lập. Cả nước lúc này có 30 tỉnh và 1 phủ (kinh đô Thừa Thiên).
Năm 1834
- Lấy kinh sư (Thừa Thiên) làm trung tâm, triều đình nhà Nguyễn chia cả nước thành các trực kỳ trong đó tả trực gồm 2 tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi.
Năm 1842
- Ông Trương Đăng Trinh đỗ Tiến sĩ (vị Tiến sĩ đầu tiên của Quảng Ngãi)
Năm 1858
- Liên quân Pháp- Tây Ban Nha tấn công Đà Nẵng, mở đầu cuộc chiến xâm lược Việt Nam.
Năm 1859
- Pháp chiếm Gia Đinh, Hộ đốc thành Gia Định là Võ Duy Ninh (người huyện Nghĩa Hành) tuẫn tiết.
Năm 1883
- Triều đình Huế và Pháp ký hiệp ước Hácmăng (Harmand) còn gọi là hiệp ước Quý Mùi.
Năm 1884
- Triều đình Huế và Pháp ký hiệp ước Patơnốt (Patenôte) còn gọi là hiệp ước Giáp Thân.
- Với 2 hiệp ước Quý Mùi và Giáp Thân, nước Việt Nam, trong đó có tỉnh Quảng Ngãi, đã trở thành thuộc địa của Pháp.
Năm 1885
- Đêm 4 rạng ngày 5.7: Kinh thành Huế thất thủ, vua Hàm Nghi xuất bôn ra Tân Sở.
- Ngày13.7: Vua Hàm Nghi ra chiếu Cần vương.
- Đêm 13.7 (1.6 Âm lịch): Lê Trung Đình khởi nghĩa (cuộc khởi nghĩa Cần vương đầu tiên ở Trung Kỳ).
- Ngày 17.7: Cuộc khởi nghĩa của Lê Trung Đình thất bại. Nguyễn Tự Tân hy sinh tại trận, Lê Trung Đình bị bắt, sau đó bị hành hình.
Năm 1894
- Khởi nghĩa Nguyễn Vịnh- Thái Thú.
Năm 1896
- Cuộc vận động cứu nước của Trần Du thất bại. Phong trào Cần vương ở Quảng Ngãi kết thúc.
Năm 1901
- Pháp xây dựng Bưu điện tỉnh Quảng ngãi (tên dân gian là Nhà Dây Thép).
Năm 1906
- Hội Duy tân (Duy tân Hội) Quảng Ngãi thành lập.
Năm 1907
- Thành lập Trường Tiểu học Pháp- Việt ở Quảng Ngãi.
Năm 1908
-  Phong trào kháng thuế- cự sưu nổ ra ở Trung Kỳ, mạnh nhất là ở Quảng Nam, Quảng Ngãi.
Năm 1916
- Cuộc mưu khởi của Việt Nam Quang phục Hội (khởi nghĩa Duy tân) thất bại.
Năm 1920
- Chiếc máy bay đầu tiên hạ cánh xuống Quảng Ngãi tại địa điểm nay là sân bay Quảng Ngãi (Trường Tàu).
Năm 1923
- Thành lập Hội Thiếu niên Ái quốc tại Quảng Ngãi.
Năm 1924
- Thành lập Công Ái xã tại Quảng Ngãi.
- Pháp cho dựng trụ đèn thắp sáng bằng acétylen (đất đèn) tại ngã tư chính- tỉnh lỵ Quảng Ngãi.
Năm 1926
- Thành lập Tỉnh bộ Tân Việt Quảng Ngãi.
Năm 1927
- Thành lập Tỉnh bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Quảng Ngãi, do Trương Quang Trọng làm Bí thư.
Năm 1929
- Tháng 5: Đại hội lần thứ I của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tổ chức tại Quảng Châu (Trung Quốc).
- Tháng 6: Tổ chức Đông Dương Cộng sản Đảng ra đời.
- Tháng 7: Tổ chức An Nam Cộng sản Đảng ra đời.
- Tháng 9: Thành lập tổ chức “Dự bị Cộng sản” tại Quảng Ngãi, tổ chức Đông Dương Cộng sản liên đoàn ra đời.
Năm 1930
- Thàng 2: Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3.2).
- Tháng 3: Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Quảng Ngãi ra đời, do Nguyễn Nghiêm là Bí thư Tỉnh ủy lâm thời.
- Tháng 6: Đại hội đại biểu lần I Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Quảng Ngãi, Nguyễn Nghiêm được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy.
- Tháng 10: Quần chúng biểu tình, chiếm huyện đường Đức Phổ (đêm ngày 7 rạng ngày mùng 8).
- Quần chúng biểu tình thị uy và xung đột với lính khố xanh ở Sơn Tịnh (đêm 30 rạng ngày 31).
- Biểu tình lớn của quần chúng ở Mộ Đức.
- Năm này Pháp cho đặt một máy phát điện công suất nhỏ tại Gốc Gáo (gần cửa Tây tỉnh thành) phục vụ thắp sáng nội thành Quảng Ngãi.
Năm 1931
- Tháng 1: Liên tiếp những cuộc biểu tình do Đảng bộ Quảng Ngãi lãnh đạo với sự tham gia của đông đảo quần chúng diễn ra ở Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Bình Sơn, Mộ Đức,…
- Tháng 3: Ngày 24, Nguyễn Nghiêm bị xử chém.
- Tháng 4 – tháng 5: Liên tục những cuộc biểu tình rầm rộ diễn ra khắp nơi trong tỉnh, đặc biệt là vào dịp Quốc tế Lao động 1.5.
Năm 1932
- Tháng 1: Ngày 23, Cơ quan lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh được khôi phục, do Võ Sỹ làm Bí thư.
Năm 1934
- Tháng 6: Ngày 25 (14.5 Âm lịch), Bảo Đại ra dụ số 23 thiết lập trung tâm đô thị, quần cư ở Quảng Ngãi (tước danh lịch tòa thành Quảng Ngãi, thành lập đô thị trung tâm của tỉnh).
Năm 1935
- Tháng 1: Pháp hoàn thành xây dựng ga Quảng Ngãi.
- Tháng 3: Khoảng 3 vạn quần chúng kéo về tỉnh lỵ đón Gôđa (Godard), đưa bản “dân nguyện”.
- Phong trào “Nước xu đỏ” chống Pháp của đồng bào Tây Nguyên lan đến miền núi Quảng Ngãi.
- Tháng 7: Ngày 12, Pháp mở phiên tòa xử vụ “Tái tổ Đảng Cộng sản Đông Dương”.
Năm 1942
- Thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản ở Cảng An trí Ba Tơ.
Năm 1945
- Tháng 3:
+ Ngày 9, Nhật đảo chính Pháp trên toàn cỏi Đông Dương
+ Ngày 11, Khởi nghĩa Ba Tơ thắng lợi.
- Tháng 8:
+ Ngày 14, Phát lệnh khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn tỉnh.
+ Ngày 16, Cách mạng tháng Tám thành công ở Quảng Ngãi.
+ Ngày 19, Cách mạng tháng Tám thành công ở Hà Nội.
+ Ngày 25, Việt Minh Quảng Ngãi và quân Nhật ký hiệp ước để quân Nhật rút khỏi Quảng Ngãi. Lần đầu tiên Quảng Ngãi sạch bóng quân xâm lược.
+ Ngày 30, Mít tinh chào mừng khởi nghĩa thắng lợi và ra mắt Ủy ban nhân dân Cách mạng tỉnh Lê Trung Đình (tên mới của tỉnh Quảng Ngãi).
- Tháng 9: Ngày 2, Mít tinh lớn ở quảng trường Ba Đình; Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập.
- Ngày 23: Hội nghị đại biểu các đoàn thể trong Mặt trận Việt Minh Quảng Ngãi, quân Pháp trở lại xâm lược nước ta.
- Tháng 10: Thành lập Trường Trung học Lê Khiết.
Năm 1946
- Tháng 1: Ngày 6, bầu cử Quốc hội đầu tiên trong cả nước.
- Tháng 2: Ngày 17, bầu cử Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.
- Tháng 4: Ngày 14, bầu cử Hội đồng nhân dân các xã trong tỉnh Quảng Ngãi.
- Tháng 5: Thành lập Hội Liên hiệp Quốc dân tỉnh Quảng Ngãi.
- Tháng 6: Đại hội đại biểu lần thứ I Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
- Tháng 12:
+ Ngày 19, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi Toàn quốc Kháng chiến (đêm 19.12.1946).
+ Ngày 22, Trung ương Đảng ra Chỉ thị toàn dân kháng chiến.
Năm 1947
- Tàu chiến Pháp bắn đại bác vào thị xã Quảng Ngãi (2.1.1947).
- Trường Trung học bình dân Nam Trung Bộ khai giảng khóa đầu tiên.
-  Xã Bình Chánh (huyện Bình Sơn) trở thành xã đầu tiên của tỉnh Quảng Ngãi thanh toán nạn mù chữ.
Năm 1948
- Huyện Tư Nghĩa trở thành huyện đầu tiên ở Nam Trung Bộ thanh toán nạn mù chữ.
- Tỉnh Quảng Ngãi (trừ các huyện miền núi) là một trong 10 tỉnh trong cả nước thanh toán nạn mù chữ.
- Nhân dân tỉnh Quảng Ngãi được Chính phủ tặng Huân chương Độc lập hạng Nhất về thành tích tăng gia sản xuất và xóa nạn mù chữ.
Năm 1949
- Tháng 12: Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh 149 tặng thưởng Huân chương Lao động Hạng hai cho cán bộ và nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.
Năm 1950
- Đại hội lần thứ II Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi trong kháng chiến chống Pháp.
- Tháng 1: Nổ ra “vụ Sơn Hà”, do thực dân Pháp và tay sai xúi giục, sắp đặt.
- Tháng 3: Đại hội lần thứ III Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi, trong kháng chiến chống Pháp (14-20.3).
Năm 1951
- Tháng 9: Pháp chiếm đảo Lý Sơn.
Năm 1952
- Đại hội lần thứ IV Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi trong kháng chiến chống Pháp (26.3-12.4).
Năm 1953
- Phát động quần chúng triệt để giảm tô, cải cách ruộng đất ở Quảng Ngãi.
Năm 1954
- Tháng 1-2: Chiến thắng Tây Nguyên, giải phóng Kon Tum.
- Tháng 5: Ngày 7, chiến thắng Điện Biên Phủ.
- Tháng 7: Ngày 20, ký kết Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương.
- Tháng 10: Đối phương bắt đầu tiếp quản tỉnh Quảng Ngãi.
Năm 1955
- Tháng 5:
+ Ngày 16, thời hạn chuyển quân tập kết chấm dứt, quyền quản lý hành chính tỉnh Quảng Ngãi thuộc về chính quyền Ngô Đình Diệm.
+ Mỹ - Diệm phát động chiến dịch “Tố Cộng - diệt Cộng”.
- Tháng 10: Thành lập Trường Trung học Trần Quốc Tuấn.
Năm 1957
- Tỉnh ủy Quảng Ngãi nhận được tài liệu “Bàn về Cách mạng miền Nam” do đồng chí Lê Duẩn khởi thảo từ Nam Bộ gửi ra.
Năm 1958
- Tháng 7: Đại hội đại biểu nhân dân các dân tộc miền tây Quảng Ngãi bàn về đoàn kết dân tộc, chuẩn bị đánh Mỹ - Diệm, tổ chức tại Gò Rô, huyện Trà Bồng (Đại hội Gò Rôi), nay thuộc xã Trà Phong, huyện Tây Trà.
- Chính quyền Sài Gòn xây dựng sân bay Quảng Ngãi. Lần đầu tiên Quảng Ngãi có đường hàng không.
Năm 1959
- Tháng 3: Ngày 3, thành lập đơn vị 339, đơn vị vũ trang đầu tiên của tỉnh trong chống Mỹ tại Nước Xoay, xã Trà Thọ, Trà Bồng (nay thuộc huyện Tây Trà).
- Tháng 8:
+ Ngày 19, thành lập đơn vị 89 tại khu VII (vùng cao huyện Sơn Hà, nay là huyện Sơn Tây).
+ Ngày 28, Khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi.
+ Ngày 31, thành lập đơn vị 299 tại vùng Nước Giáp, ranh giới 3 huyện Minh Long, Sơn Hà và Ba Tơ.
- Tháng 9: Ngày 5, giải phóng khu VII, nay là huyện Sơn Tây.
- Năm này chính quyền Sài Gòn khởi công xây dựng đài nước cho vùng nội thị. Năm 1963 đài nước này mới hoàn thành, đưa vào sử dụng.
Năm 1960
- Tháng 2: Đại hội lần thứ I Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi trong kháng chiến chống Mỹ.
- Tháng 12: Ngày 20, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời.
Năm 1963
- Tháng 11: Ngày 1, đảo chính tại Sài Gòn, Ngô Đình Nhu bị nhóm tướng lĩnh làm đảo chính giết chết.
Năm 1964
- Tháng 10: Xảy ra trận lụt lịch sử (lụt Giáp Thìn) gây thiệt hại lớn về sinh mạng và tài sản của nhân dân trong tỉnh.
Năm 1965
- Tháng 1: Đại hội lần thứ II Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi, trong kháng chiến chống Mỹ.
- Tháng 5:
+ Chính quyền cách mạng quyết định thành lập đơn vị thị xã Quảng Ngãi, gồm vùng nội thị, xã Nghĩa Điền, xã Nghĩa Lộ (về sau mở rộng gồm cả xã Nghĩa Dõng, nay thuộc thành phố Quảng Ngãi, và thôn Đông Dương thuộc huyện Sơn Tịnh).
+  Ngày 31, chiến thắng Ba Gia.-
- Tháng 6: Trận đánh Mỹ đầu tiên trên đất Quảng Ngãi; quân và dân xã Bình Đông (huyện Bình Sơn) đánh mìn chìm 1 canô, diệt 7 lính Mỹ.
- Tháng 8: Ngày 18, chiến thắng Vạn Tường.
- Tháng 9: Ngày 22, khánh thành cầu Trà Khúc xây dựng bằng bêtông cốt thép.
Năm 1966
- Tháng 8: Ngày 20, lữ đoàn “Rồng Xanh” (quân Nam Triều Tiên) được Mỹ đưa vào Quảng Ngãi.
- Tháng 12: Ngày 5-6, lữ đoàn “Rồng Xanh” gây ra vụ thảm sát Bình Hòa.
Năm 1967
- Tháng 2: Ngày 15, chiến thắng đồi Quang Thạnh (xã Tịnh Thọ, huyện Sơn Tịnh) diệt một tiểu đoàn lính Nam Triều Tiên.
- Tháng 8:
+ Ngày 3, chiến thắng Cổ Lũy, tiêu diệt cứ điểm Hải Thuyền tại Cổ Luỹ (huyện Tư Nghĩa).
+ Từ ngày 6 đến ngày 26, chiến thắng Sông Rhe.
+ Ngày 30, lực lượng đặc công Quân khu V và trinh sát vũ trang An ninh tỉnh và các đội công tác của thị đột kích vào Trung tâm cải huấn, lao xá, trại giam Gò Lăng, giải thoát gần 1.500 cán bộ, bộ đội cách mạng, đưa về căn cứ an toàn.
Năm 1968
- Tháng 1: Ngày 31, 2 giờ 30 phút mở màn cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân ở Quảng Ngãi.
- Tháng 3: Ngày 16, quân Mỹ gây ra vụ thảm sát Sơn Mỹ (thuộc xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh) sát hại 504 thường dân, hầu hết là người già, phụ nữ và trẻ em.
- Tháng 10: Đại hội lần thứ III Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi trong kháng chiến chống Mỹ.
- Tháng 12: Ngày 20, thành lập Uỷ ban nhân dân Cách mạng tỉnh Quảng Ngãi.
Năm 1969
- Tháng 5: ngày 13, chiến thắng Ba Làng An, đánh bại cuộc hành quân “Liên kết 9”
- Tháng 9:
§  Ngày 2, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời.
§  Ngày 9, đồng bào Cor huyện Trà Bồng tự nguyện mang họ Bác Hồ.
Năm 1970
- Tháng 10: Ngày 7-8, tiến công cụm cứ điểm Trà Bồng. Mở đầu giai đoạn đánh tiêu diệt chi khu quân sư, cụm cứ điểm lớn và quận lỵ.
- Tháng 11: Đại hội lần thứ IV Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi trong kháng chiến chống Mỹ.
Năm 1971
- Tháng 11: Quân Mỹ rút hết khỏi Quảng Ngãi.
Năm 1972
- Tháng 10: Ngày 30, giải phóng Ba Tơ
Năm 1973
- Tháng 1: Ngày 27, ký kết hiệp định Pari (Paris) về Việt Nam.
- Tháng 8: Đại hội lần thứ V Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi, trong kháng chiến chống Mỹ.
Năm 1974
- Tháng 8: Ngày 17, giải phóng huyện Minh Long.
Năm 1975
- Tháng 3:
+ Ngày 17, giải phóng huyện Sơn Hà.
+ Ngày 18, giải phóng huyện Trà Bồng (nay là huyện Trà Bồng và Tây Trà).
+ Ngày 24, 12 giờ, chuẩn tướng quân đội Sài Gòn Trần Văn Nhật (tư lệnh Sư đoàn 2) và bọn đầu sỏ chính quyền, quân đội Sài Gòn chạy trốn khỏi Quảng Ngãi. 20 giờ, tàn quân địch tháo chạy về hướng Đà Nẵng. Ta giải phóng tỉnh lỵ Quảng Ngãi và các huyện Tư Nghĩa, Nghĩa Hành, Mộ Đức, Đức Phổ.
+ Ngày 25, giải phóng các huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh.
+ Ngày 31, giải phóng đảo Lý Sơn (nay là huyện Lý Sơn)
+ Mít tinh lớn chào mừng tỉnh Quảng Ngãi giải phóng, Uỷ ban nhân dân quân chính thị xã Quảng Ngãi ra mắt trước hạng vạn đồng bào.
- Tháng 4: Hoàn chỉnh hệ thống chính quyền cách mạng từ tỉnh đến xã, thôn.
- Tháng 6: Khởi công xây dựng Khu chứng tích tội ác của giặc Mỹ tại Sơn Tịnh (xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh).
- Tháng 9: Ngày 20, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị quyết số 245/NQ-TW về việc bãi bỏ cấp khu, hợp nhất các tỉnh, theo đó tỉnh Nghĩa Bình được hình thành trên cơ sở sáp nhập 2 tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định.
- Tháng 12: Quốc hội khoá V thông qua Nghị quyết thành lập các tỉnh hợp nhất, trong đó có tỉnh Nghĩa Bình (gồm 2 tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định).
Năm 1976
- Tháng 1: Báo Nghĩa Bình ra số đầu tiên.
- Tháng 11: Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghĩa Bình lần thứ I – vòng 1.
Năm 1977
- Tháng 3: Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghĩa Bình lần thứ I – vòng 2.
Năm 1978
- Tháng 3: Ngày 21, thành lập Trường Cao đẳng Cư phạm Nghĩa Bình (sau là Trường Cao đẳng sư phạm Quảng Ngãi) và nay là một cơ sở của Trường Đại học Phạm Văn Đồng .
Năm 1980
- Tháng 11: Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghĩa Bình lần thứ 2.
- Xây dựng Nhà lưu niệm đồng chí Nguyễn Nghiêm – Bí thư đầu tiên của Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi, tại xã Phổ Phong, huyện Đức Phổ.
Năm 1981
- Trùng tu Nhà lưu niệm Phạm Văn Đồng tại thôn Thi Phổ Nhất, xã Đức Tân, huyện Mộ Đức.
Năm 1982
- Tháng 11: Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghĩa Bình lần thứ III – vòng 1.
Năm 1983
- Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghĩa Bình lần thứ III – vòng 2.
- Thành lập trạm phát sóng truyền hình (thuộc Đài Truyền hình Nghĩa Bình) tại thị xã Quảng Ngãi.
Năm 1984
- Xây dựng Bảo tàng khởi nghĩa Ba Tơ tại thị trấn Ba Tơ.
Năm 1985
- Xây dựng Nhà văn hoá Lao động tỉnh tại thị xã Quảng Ngãi.
- Tháng 6: Ngày 1, khởi công xây dựng hệ thống thuỷ lợi Thạch Nham.
Năm 1989
- Tháng 7:
+ Ngày 1, tỉnh Nghĩa Bình chính thức tách thành 2 tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định như cũ.
+ Ngày 8, Báo Quảng Ngãi (cơ quan của Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi) ra  số đầu tiên.
Năm 1991
- Tháng 4: Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lần thứ XIV- vòng 1.
- Tháng 10: Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lần thứ XIV- vòng 2.
Năm 1993
- Tháng 1: Ngày 1, thành lập huyện đảo Lý Sơn.
Năm 1994
- Thành lập huyện Sơn Tây.
Năm 1996
- Tháng 10: Hoàn thành, tổng nghiệm thu, bàn giao công trình thuỷ lợi Thạch Nham.
- Tháng 12: Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lần thứ XV.
Năm 1997
- Tháng 10: Ngày 7, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 830/QĐ-TTg thành lập Ban quản lý các Khu công nghiệp Quảng Ngãi.
Năm 1998
- Tháng 1: Ngày 8, động thổ khởi công xây dựng Nhà máy lọc dầu số Dung Quất.
Năm 2001
- Tháng 3: Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lần thứ XVI.
Năm 2003
- Tháng 11: Hợp long cầu Trà Khúc II.
Năm 2005
- Tháng 3: Ngày 11, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 50/QĐ-TTg thành lập và ban hành quy chế hoạt động Khu kinh tế Dung Quất, tỉnh Quảng Ngãi.
- Tháng 6: Ngày 18, công bố Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về thành lập Khu kinh tế Dung Quất.
- Tháng 8: Ngày 26, Chính phủ ban hành Nghị định số 112/2005/NĐ-CP thành lập thành phố Quảng Ngãi thuộc tỉnh Quảng Ngãi.
- Tháng 10: Ngày 8, tỉnh Quảng Ngãi tổ chức công bố Nghị định của Chính phủ về việc thành lập thành phố Quảng Ngãi thuộc tỉnh Quảng Ngãi.
- Tháng 12:
+ Ngày 9, khởi công Dự án hồ Nước Trong.
+ Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII.
SÔNG NGÒI


Trên bình diện địa hình, vùng Quảng Ngãi có 04 con sông lớn là Trà Bồng, Trà Khúc, sông Vệ và sông Trà Câu. Các con sông này có đặc trưng chung là đều có hướng chảy vĩ tuyến hoặc á vĩ tuyến, phân bố khá đều trên vùng đồng bằng Quảng Ngãi
 Sông Trà Bồng
 Nằm ở phía Bắc tỉnh, bắt nguồn từ dãy núi phía Tây của huyện Trà Bồng, chảy qua huyện Bình Sơn ra biển tại của Sa Cần. Sông dài khoảng 45km, hướng chảy cơ bản từ Tây sang Đông, đoạn cửa sông hướng rẽ hướng Nam- Bắc. Phần lớn sông chảy qua vùng địa hình rừng núi có độ cao 200- 1.300m, phần còn lại chảy trong vùng đồng bằng xen đồi trọc và bãi cát. Phía thượng nguồn của sông Trà Bồng có nhiều phụ lưu gồm nhiều sông suối, đáng kể như suối Nun, suối Cà Đú, sông Trà Bói ở các xã Trà Thủy, Trà Giang. Về tới hạ lưu Đông huyện Bình Sơn có thế đất khá cao, nên sông Trà Bồng không còn chảy xiết như đoạn trên. Nước chảy lờ đờ, như vậy mà khác với sông Vệ và sông Trà Khúc, xưa kia người ta không thể đặt xe nước trên sông Trà Bồng. Đoạn gần cửa sông có những vùng có độ cao 10- 40m. Sông Trà Bồng có 5 nhánh cấp I. Ở vùng hạ lưu còn có các nhánh sông suối nhỏ chảy ngược, hợp nước vào sông chính trước khi đổ ra biển.

Nhánh suối sâu (xã Bình Minh, huyện Bình Sơn) bắt nguồn từ núi Đá Miếu (xã Bình An, huyện Bình Sơn) theo hướng Bắc- Nam, gặp sông chính tại An Phong (xã Bình Mỹ, huyện Bình Sơn), dài 19km.

Nhánh sông Bí chảy từ Đông Phước (xã Bình Thanh, huyện Bình Sơn) theo hướng Nam- Bắc, gặp sông chính ở Thượng Hà (xã Bình Thới, huyện Bình Sơn) tiếp giáp với hạ lưu và cửa sông dài 12km.

Lưu vực sông Trà Bồng bao gồm hầu hết huyện Trà Bồng và huyện Bình Sơn. Diện tích lưu vực khoảng 697km2.

Sông Trà Khúc

Nằm ở giữa tỉnh, sông Trà Khúc là sông lớn có lượng nước dồi dào nhất so với các sông khác trong toàn tỉnh. Ở thượng nguồn sông có 03 nguồn chính:

Nguồn thứ nhất từ vùng Giá Vụt phía Tây huyện Ba Tơ, chảy theo hướng Nam- Bắc, đến địa hạt huyện Sơn Hà gọi là sông Rhe. 

Nguồn thứ hai bắt nguồn từ vùng Đông Kon Tum và huyện Sơn Tây, với các suối lớn, nhỏ hợp nước với nhau chảy theo hướng Tây- Đông xuống Sơn Hà, gọi là sông Rinh (Đắk Rinh). Một nguồn nước rất quan trọng của sông Rinh là sông Tang. Sông Tang bắt nguồn từ huyện Tây Trà, chảy theo hướng Tây Bắc- Đông Nam, hợp nước với sông Rinh ở đoạn làng Lô, làng Mùng xã Sơn Bao phía Tây Bắc huyện Sơn Hà. Trên sông Tang đang xây dựng một hồ chứa nước lớn là hồ Nước Trong.

Nguồn thứ ba bắt nguồn từ Tây Nam huyện Sơn Hà giáp với huyện Sơn Tây, chảy theo hướng Tây Nam- Đông Bắc, gọi là sông Xà Lò (Đắk Sêlô).

Ba sông chính từ các hướng khác nhau cùng hợp nước ở các xã Sơn Trung, Sơn Hải, phía Đông Nam huyện lỵ Sơn Hà và đoạn sông này người ta thường gọi là sông Hải Giá. Từ Hải Giá sông chảy theo hướng Tây Nam- Đông Bắc đến Thạch Nham (giáp với 03 huyện Sơn Hà, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa) thì thoát khỏi núi non, một đoạn nữa đến thôn Hưng Nhượng xã Tịnh Đông về sau thì hướng chảy cơ bản là Tây- Đông, tuy nhiên vẫn có nhiều đoạn sông quanh gấp khúc (do vậy được gọi là sông Trà Khúc). Ở Thạch Nham, người ta đã xây dựng đập chắn ngang sông, để nước dâng lên, theo hai kênh Chính Bắc- Chính Nam chảy tưới cho các đồng bằng Quảng Ngãi. Công trình đại thủy nông Thạch Nham là một công trình thủy lợi kỳ vĩ. Xưa kia trên sông Trà Khúc từ Đồng Nhơn (xã Tịnh Đông, huyện Sơn Tịnh) đến cuối nguồn người ta đặt rất nhiều guồng xe nước lớn để tưới cho đồng ruộng. Sông Trà Khúc ở các hợp lưu thượng nguồn sông đào lòng nước dữ dội qua các thung lũng, đến hạ lưu nước vẫn chảy rất xiết cho đến khi đổ nước ra cửa Đại Cổ Lũy. Sông Trà Khúc có độ dài khoảng 135km, trong đó có khoảng 1/3 chiều dài sông chảy qua vùng núi và rừng rậm, có độ cao 200- 1.000m, phần còn lại chảy qua vùng đồng bằng.
 Bởi hợp lưu từ nhiều hướng khác nhau, nên sông có dạng hình cành cây, có 09 phụ lưu cấp I, 05 phụ lưu cấp II, 06 phụ lưu cấp III và 02 phụ lưu cấp IV.
 Sông Trà Khúc có diện tích lưu vực khoảng 3.240km2, bao gồm phần đất của các huyện Sơn Hà, Tư Nghĩa, một phần huyện Ba Tơ, Minh Long, Sơn Tịnh, Trà Bồng và Tây Trà, có một phần nguồn nhỏ thuộc địa phận tỉnh Kon Tum.
 Trên bề mặt lưu vực sông có khoảng nửa diện tích kể từ nguồn là rừng già, còn lại là rừng thưa kiểu cao nguyên và cây bụi rậm; vùng hạ lưu là đất canh tác và đồng bằng trồng lúa chiếm diện tích khá lớn.
 Sông Vệ
Bắt nguồn từ rừng núi phía Tây của huyện Ba Tơ. Sông chảy theo hướng Tây Nam- Đông Bắc, giữa các huyện Nghĩa Hành, Tư Nghĩa, Mộ Đức đổ ra biển Đông tại cửa Cổ Lũy và cửa Đức Lợi. Sông dài khoảng 90km, trong đó 2/3 chiều dài chảy trong vùng núi có độ cao 100- 1.000m. Sông có 05 phụ lưu cấp I, 02 phụ lưu cấp II. Các phụ lưu không lớn, đáng kể là:
Sông Liên bắt nguồn từ vùng núi Tây Nam huyện Ba Tơ. Sông chảy theo hướng Tây Nam- Đông Bắc, hợp nước với sông Tô ở thị trấn Ba Tơ.
 Sông Tà Nô hay sông Tô chảy từ đồng Bia xã Ba Tô có độ cao trên 200m, theo hướng Tây- Đông, hợp với sông chính cách huyện lỵ Ba Tơ 18km về phía hạ lưu.
Sông Mễ chảy từ vùng núi Mum, phần tiếp giáp giữa hai huyện Ba Tơ và Minh Long theo hướng Tây Bắc- Đông Nam, hợp lưu tại khoảng làng Teng xã Ba Thành, dài khoảng 09km. Dòng chính cơ bản chảy theo hướng Tây Nam- Đông Bắc, dọc huyện Nghĩa Hành đến hết xã Hành Thiện thì sông thoát khỏi núi, chảy trên vùng đồng bằng. Tại điểm này có trạm bơm Nam sông Vệ. Đến qua đường sắt, sông chảy giữa hai huyện Tư Nghĩa- Mộ Đức. Trên sông Vệ xưa kia cũng có rất nhiều guồng xe nước. Cuối nguồn, sông Vệ đổ ra cửa Lở và cửa Đại Cổ Lũy.
Sông Vệ có một chi lưu đáng kể nhất là sông Thoa. Sông Thoa bắt đầu từ thôn Mỹ Hưng (xã Hành Thịnh, huyện Nghĩa Hành) và thôn Phú An (xã Đức Hiệp, huyện Mộ Đức) theo hướng Tây Bắc- Đông Nam đến Sa Bình (xã Phổ Minh, huyện Đức Phổ) thì nhập với sông Trà Câu rồi đổ ra biển qua cửa Mỹ Á.
Ngoài ra, còn có các nhánh sông khác như sông Cây Bứa dài 15km, sông Phú Thọ dà 16km, hợp lưu với sông chính gần vùng cửa sông tạo thành hình nan quạt. Sông Phú Thọ thực chất là đoạn sông Vệ ở cuối nguồn. Nguồn của chúng chủ yếu là nước mưa của vùng tiếp giáp giữa rừng núi và đồng bằng.
Sông Vệ có diện tích lưu vực 1.260km2, bao gồm địa hạt các huyện Ba Tơ, Minh Long, Mộ Đức, Nghĩa Hành và một phần nhỏ diện tích của huyện Tư Nghĩa. Độ cao trung bình lưu vực khoảng 170m, mật độ lưới sông 0,79km/km2.
Thực vật che phủ bề mặt lưu vực vùng thượng lưu phần lớn là rừng già, bụi rậm, vùng hạ lưu chủ yếu là vùng đất canh tác nông nghiệp.
Sông Trà Câu
Bắt nguồn từ vùng núi Ba Trang (huyện Ba Tơ), với độ cao 400m. Dòng sông chính chủ yếu chảy theo hướng Tây- Đông, đoạn trên thường gọi là sông Vực Liêm. Ở cuối nguồn, sông Trà Câu nhập lưu với sông Thoa tại Sa Bình, xã Phổ Minh, huyện Đức Phổ, rồi đổ ra cửa Mỹ Á cách đó khoảng 2,5km.
Sông Trà Câu có diện tích lưu vực 442km2, chiều dài sông khoảng 32km; chiều dài lưu vực 19km và chiều rộng bình quân lưu vực 14km. Đây là con sông nhỏ nhất trong các sông kể trên, nước thường cạn kiệt về mùa khô.
Lưu vực sông Trà Câu bao gồm một phần phía Đông và phía Đông Nam huyện Ba Tơ, các xã Phổ Phong, Phổ Thuận, Phổ Nhơn huyện Đức Phổ. Lớp phủ thực vật chủ yếu là rừng thưa và đồi trọc.
Ngoài 04 con sông chính trên, Quảng Ngãi còn có các sông nhỏ như Trà Ích (Trà bồng), sông Cái (Tư Nghĩa), sông Phước Giang (Nghĩa Hành), sông La Vân (Đức Phổ),…
Sông ngòi Quảng Ngãi đều xuất phát từ Đông Trường Sơn và chảy ra biển Đông. Dòng sông ngắn, độ dốc cao (từ 10,5 độ đến 33 độ), lòng sông cạn và hẹp nên vào mùa mưa (có lượng mưa rất nhiều) dòng chảy cường độ mạnh, thường gây ra lũ lụt lớn, gây tác hại cho sản xuất và đời sống, mặt khác cũng mang về cho đồng bằng một lượng phù sa đáng kể. Với mạng lưới sông suối dày đặc, các phụ lưu của hệ thống sông Trà Bồng, Trà Khúc, sông Vệ và Trà Câu đều bắt nguồn từ những vùng núi cao có độ dốc lớn với lượng nước nhiều là những nguồn thuỷ năng có giá trị. Ở các huyện miền núi nhân dân đã đắp đập để làm thuỷ điện.

Đặc trưng thủy văn các sông chính tỉnh Quảng Ngãi

Sông
Chiều dài sông (km)
Chiều dài
lưu vực (km)
Chiều rộng
lưu vực (km)
Diện tích
lưu vực (km2)
    Trà Bồng
45
56
12,4
697
    Trà Khúc
135
123
26,3
3.240
   Sông Vệ
90
70
18,0
1.260
  Trà Câu
32
19
14,0
442


ĐẦM 

Trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi có 03 đầm nước tự nhiên là Nước Mặn, An Khê, Lâm Bình.

Đầm Nước Mặn

​Thuộc địa phận xã Phổ Thạnh (huyện Đức Phổ), có tổng diện tích khoảng 150ha. Đây là khu vực đầm phá kiểu vịnh kín, thông ra biển tại cửa Sa Huỳnh. Là đầm nước luôn có độ mặn khá cao cả về mùa khô và mùa mưa, vì vậy có tên là đầm Nước Mặn. Với đầm này chỉ có thể nuôi trồng thủy sản nước mặn và làm muối. Vì thế, từ lâu nhân dân ở đây đã khai thác một phần diện tích của đầm để làm muối. 

Đầm An Khê

Thuộc địa phận xã Phổ Khánh (huyện Đức Phổ). Theo báo cáo khoa học điều tra nhiễm mặn vùng ven biển tỉnh Quảng Ngãi, do đài Khí tượng Thủy văn Trung Trung bộ thực hiện năm 1998 cho thấy vào mùa mưa nước trong đầm có độ mặn không đáng kể, nhưng về mùa khô là một đầm nước lợ, độ mặn từ 0,3- 10‰.

 Đầm Lâm Bình

Thuộc địa phận xã Phổ Cường (huyện Đức Phổ), có độ mặn thấp, thường dao động từ 0,2- 0,3‰; về mùa khô, những tháng nắng hạn nhất đầm bị cạn nước hoàn toàn.

 Theo tài liệu quy hoạch tổng thể nuôi trồng thủy sản năm 2002, đầm An Khê và đầm Lâm Bình có tổng diện tích 300ha, có thể sử dụng cho nuôi trồng thủy sản nước ngọt, nước mặn và cải thiện môi trường trên địa bàn.

HỒ

 Ở Quảng Ngãi hầu như không có hồ nước tự nhiên nào đáng kể, chỉ có những hồ nước được đào đắp phục vụ cho thủy điện, thủy lợi như:

Hồ An Phong

Được xây dựng từ năm 1984 tại xã Bình Mỹ, huyện Bình Sơn năng lực thiết kế tưới cho 320ha, năng lực tưới thực tế là 120ha.

 Hồ Tôn Dung


Được xây dựng năm 1978 trên nhánh suối nhỏ thượng lưu sông Liên, thuộc địa phận thị trấn Ba Tơ. Hồ có diện tích lưu vực 20km2, với diện tích tưới thiết kế là 150ha. Những năm trước, do kênh mương chưa hoàn chỉnh nên chỉ tưới được khoảng 30ha; năm 2001- 2002, đã xây dựng hoàn chỉnh tuyến kênh, mương, đảm bảo nước tưới đủ diện tích thiết kế.


 Hồ Suối Chí


Được xây dựng trên suối Chí, xã Hành Tín Đông, huyện Nghĩa Hành vào năm 2002. Năng lực tưới theo thiết kế là 250ha.



 Hồ chứa nước Sở Hầu

            ​Xây dựng năm 1976 tại xã Phổ Nhơn, huyện Đức Phổ. Năng lực tưới theo thiết kế là 400ha.

           Hồ chứa nước Núi Ngang

Xây dựng vào năm 2000 tại xã Phổ Nhơn, huyện Đức Phổ, có năng lực tưới theo thiết kế là 1.450ha

 Hồ chứa nước Liệt Sơn

Xây dựng năm 1977 trên sông Lò Bó, xã Phổ Hoà, huyện Đức Phổ tại vị trí có diện tích lưu vực 36,8km2. Năng lực tưới thiết kế là 2.500ha, thực tế tưới được 1.850ha, bằng 74% năng lực thiết kế.


 ĐẬP


Các công trình đập được xây dựng ở Quảng Ngãi chủ yếu phục vụ cho việc tưới tiêu nông nghiệp trên địa bàn tỉnh

 Đập Đá Giăng

Được xây dựng năm 1977 tại xã Bình Minh, huyện Bình Sơn, năng lực tưới theo thiết kế 420ha, năng lực tưới thực tế là 40ha.

 Đập Xã Điệu

Được xây dựng từ năm 1977 trên suối Xã Điệu, xã Sơn Hạ, huyện Sơn Hà, có diện tích lưu vực 17km2, năng lực tưới theo thiết kế là 350ha, thực tế tưới được 75ha do cụm đầu mối xuống cấp và kênh nội đồng bị hư hỏng nhưng chưa được tu sửa.

 Đập Cù Và

Được xây dựng từ năm 1980 trên sông Giang tại vị trí có diện tích lưu vực 84km2, có năng lực tưới theo thiết kế là 300ha cho các xã Tịnh Đông, Tịnh Giang và Tịnh Hiệp (huyện Sơn Tịnh), công trình đang hoạt động tốt.

 Đập Xã Trạch

Được xây dựng vào năm 1980 trên suối Xã Trạch, xã Sơn Thành, huyện Sơn Hà, năng lực tưới thiết kế là 150ha, nhưng thực tế chỉ tưới được 40ha do hệ thống kênh nội đồng chưa hoàn chỉnh.

Đập thuỷ lợi Thạch Nham

Đây là đập dâng thuộc loại lớn nhất trong cả nước, công trình này đã được người Pháp khảo sát từ thời Pháp thuộc. Công trình được khởi công xây dựng vào năm 1985 tại xã Sơn Nham, huyện Sơn Hà, tại vị trí có diện tích lưu vực 2.850km2 trên sông Trà Khúc.




Công trình được đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn của Nhà nước và đóng góp của nhân dân trong tỉnh bằng ngày công nghĩa vụ công ích. Năm 1992, công trình hoàn thành giai đoạn 1 và được đưa vào khai thác; đến năm 1997, công trình cơ bản hoàn thành. Hệ thống công trình gồm có: đập tràn đầu mối với chiều dài 200m, hai cửa cống lớn lấy nước qua hai hệ thống kênh chính Bắc và Nam có tổng chiều dài 87,6km; 566 tuyến kênh, gồm 28 tuyến kênh cấp I với tổng chiều dài 208,4km, 85 tuyến kênh cấp II và III (có Ft > 150ha) với tổng chiều dài 208,8km và 453 tuyến kênh nội đồng (có Ft < 150ha) với tổng chiều dài 453km. Ngoài ra, còn có 15 trạm bơm điện với tổng công suất từ 980- 1.200m3/h/1 máy, lấy nước từ các tuyến kênh cấp I, II để bơm tưới cho 4.500ha đất canh tác. Công trình thủy lợi Thạch Nham có tổng năng lực tưới theo thiết kế là 50.000ha đất canh tác, trong đó tưới cho cây lúa là 31.000ha và cho cây trồng cạn 19.000ha. Công trình tưới cho các huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Nghĩa Hành, Mộ Đức, thành phố Quảng Ngãi và một phần huyện Đức Phổ. Đến cuối năm 2005, diện tích canh tác được tưới thực tế khoảng 32.500ha, trong đó tưới cho cây lúa là 25.000ha và cây trồng cạn 7.500ha.
 Từ khi có nguồn nước tưới từ công trình thủy lợi Thạch Nham, sản xuất nông nghiệp ở khu vực đồng bằng Quảng Ngãi đã có sự thay đổi rõ rệt, cuộc sống của người nông dân trở nên khá giả hơn rất nhiều. Có thể nói, công trình thủy lợi Thạch Nham đã đem lại cuộc sống ấm no cho người dân của vùng đồng bằng Quảng Ngãi.

 Tuy vậy, ở một số vùng do địa hình cao, phức tạp, kênh bị bồi lấp nên nguồn nước Thạch Nham vẫn không tới được. Điển hình như các xã phía Đông của huyện Bình Sơn (gồm các xã Bình Đông, Bình Thạnh, Bình Thuận, Bình Hoà, Bình Hải), gặp những năm nắng hạn, đồng ruộng phải bỏ hoang vì thiếu nước. Mặt khác, do nguồn vốn đầu tư xây dựng các tuyến kênh nội đồng bị hạn hẹp, chủ yếu được làm bằng đất nên thường bị sạt, lở khi có lũ, lụt lớn.

Đập nước Lang và đập Làng

Đập nước Lang được xây dựng năm 1993 thuộc xã Ba Dinh, huyện Ba Tơ và đập Làng ở xã Hành Tín Tây (huyện Nghĩa Hành)xây dựng năm 1977. Hai đập này lần lượt có diện tích tưới thiết kế là 110ha và 80ha, song thực tế chỉ tưới được 50ha và 45ha do khi khảo sát và thiết kế ban đầu chưa đúng, đưa diện tích khu tưới lớn so với thực tế. Mặt khác, đập Làng có diện tích lưu vực quá nhỏ, chỉ khoảng 4km2 nên nguồn nước đến hạn chế.

Đập Suối Lớn

Được xây dựng trên nhánh suối Lớn thuộc xã Long Hiệp, huyện Minh Long, hệ thống được đưa vào sử dụng năm 1979. Đập có diện tích lưu vực trên 30km2, với diện tích tưới thiết kế 160ha, chiều dài kênh chính 5km. Hiện tại kênh mương đã hư hỏng nhiều nên đập chỉ tưới được 50ha, ngoài ra, một số đoạn kênh nội đồng chưa hoàn chỉnh. Cần sửa chữa, nâng cấp kiên cố hoá kênh mương thì công trình mới đảm bảo diện tích tưới theo thiết kế.

Đập Đồng Thét

Được xây dựng vào năm 1962 trên sông Phước Giang, thuộc xã Hành Nhân (huyện Nghĩa Hành), được sửa chữa lại vào năm 1975. Hiện nay, công trình đầu mối và hệ thống kênh mương đã xuống cấp nặng. Diện tích tưới thiết kế của công trình là 250ha, thực tế chỉ mới tưới được 80ha. Nguồn nước đến đập đầy đủ nhưng cần phải sửa chữa, nâng cấp lại công trình đầu mối và hệ thống kênh để công trình đảm bảo diện tích tưới thiết kế.

Đập dâng Đá Giăng
Xây dựng từ năm 1980 trên sống Trà Câu, xã Phổ Phong, huyện Đức Phổ tại vị trí có diện tích lưu vực 74,5km2, có năng lực tưới theo thiết kế 700ha, nhưng thực tế chỉ tưới được 400ha do công trình bị xuống cấp và nguồn nước thiếu. Hiện nay, công trình này được bổng sung nước từ hồ chứa Núi Ngang.
QUẢNG NGÃI - quê hương của nhà cách mạng, nhà văn hóa lớn Phạm Văn Đồng - là một mảnh đất giàu truyền thống yêu nước, hiếu học, đoàn kết, lao động cần cù, sáng tạo. Tiếp xúc với tiến trình phát triển của đất Quảng Ngãi theo suốt chiều dài lịch sử, người ta không khỏi ngạc nhiên bởi những đóng góp của mảnh đất này vào sự phát triển kinh tế xã hội - văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Nơi đây các nhà khảo cổ học đã tìm được nhiều hiện vật về thời kỳ đồ đá, chứng tỏ mảnh đất này từng có con người sinh tụ và đã có sự hiện diện của một nền văn minh từ thời thượng cổ. Quảng Ngãi là nơi phát hiện đầu tiên, cũng là cái nôi của nền văn minh - văn hóa Sa Huỳnh, có niên đại cách nay 2.500 - 3.000 năm, với những di chỉ hết sức phong phú ở Sa Huỳnh, Thạnh Đức,  Kế tiếp Văn hóa Sa Huỳnh là Văn hóa Chămpa với kiến trúc thành Châu Sa, tháp Chánh Lộ quy mô, bề thế, mang một phong cách riêng, cùng nhiều di chỉ, di tích khác có niên đại cách đây hàng ngàn năm.
Kế sau Chămpa, văn hóa Việt trở thành dòng chủ đạo của nền văn hóa đa dân tộc, tiếp tục phát triển từ thế kỷ XV trở về sau. Trong sự giao thoa, chuyển tiếp với Văn hóa Chămpa, sự giao lưu văn hóa với các dân tộc anh em bản địa miền núi là các  pha trộn với người Hoa và một số dân tộc khác, đã nhào nặn nơi đất này một sắc thái văn hóa khá độc đáo, góp phần làm phong phú cho nền văn hóa các dân tộc Việt Nam.
Trải qua những thời kỳ lịch sử lâu dài, lam sơn chướng khí bị đẩy lùi, hình thành nên làng mạc, ruộng đồng, kênh mương, nhà cửa, cây đa, bến nước, đình làng, thành quách, phố xá, nơi lưu dấu biết bao mồ hôi, xương máu, nước mắt và nụ cười của lớp lớp thế hệ chủ nhân đất Quảng Ngãi.
Các dân tộc ở Quảng Ngãi là người dân Việt Nam, mang đặc tính chung của người Việt Nam và với sự nỗ lực của mình, người Quảng Ngãi đã góp phần tô đậm những nét đẹp quý báu của người Việt Nam. Qua thử thách trong môi trường tự nhiên và xã hội khắc nghiệt, người Quảng Ngãi đã rèn đúc cho mình thêm sự cứng cỏi, dẻo dai, không chỉ có sức chịu đựng mà còn đủ ý chí, nghị lực, sức sáng tạo để cải biến tự nhiên, xây dựng xã hội ngày càng tốt đẹp hơn.
Ngược dòng lịch sử, vào thế kỷ XVIII, cùng với Bình Định, Quảng Ngãi cũng được xem là cái nôi của phong trào nông dân Tây Sơn ngay từ khi nó mới khởi phát và sau đó đã có những đóng góp không nhỏ vào các cuộc chống ngoại xâm của dân tộc, tạo lập nên các chiến công oanh liệt đánh tan quân Xiêm, đại phá quân Thanh. Quảng Ngãi là quê hương của Trần Quang Diệu, Trương Đăng Đồ và nhiều vị văn thần, võ tướng khác của nhà Tây Sơn. Thời Pháp khởi sự xâm lược Việt Nam, Quảng Ngãi có Hộ đốc Võ Duy Ninh là vị chỉ huy cao cấp đầu tiên của triều đình Huế tử tiết vì thành Gia Định (1859); tiếp sau có Bình Tây Đại nguyên soái Trương Định trở thành một thủ lĩnh nghĩa quân Nam Kỳ chống Pháp. Sau ngày Kinh đô Huế thất thủ (1885), Quảng Ngãi là nơi phất cờ khởi nghĩa Cần vương chống Pháp đầu tiên ở Nam Trung Kỳ, dưới sự lãnh đạo của Lê Trung Đình, Nguyễn Tự Tân và mặc dù bị kẻ địch dìm trong bể máu, phong trào Cần vương ở Quảng Ngãi vẫn liên tục tồn tại hàng chục năm sau. Đầu thế kỷ XX, Quảng Ngãi ghi dấu vào lịch sử Việt Nam bằng những hoạt động mạnh mẽ, tích cực của Duy tân Hội, với các chí sĩ yêu nước Lê Đình Cẩn, Nguyễn Bá Loan, Lê Tựu Khiết… đặc biệt là phong trào cự sưu, khất thuế rầm rộ, có tiếng vang trong khắp cả nước thời bấy giờ. Mặc dù bị kẻ địch đàn áp khốc liệt, nhiều nhà yêu nước và quần chúng bị địch giết hại, tù đày nhưng phong trào yêu nước ở Quảng Ngãi vẫn được tiếp nối với Việt Nam Quang phục Hội, xuất hiện hàng loạt chí sĩ, như Lê Ngung, Nguyễn Thụy, Phạm Cao Chẩm... trong cuộc khởi nghĩa bất thành năm 1916. Các phong trào, hoạt động yêu nước cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX tuy bị đàn áp đẫm máu, khốc liệt, nhưng lòng yêu nước của người dân Quảng Ngãi không vì thế mà bị dập tắt, nguội lạnh; ngược lại, nó đã liên tục bùng lên mạnh mẽ, nhất là sau khi Ðảng Cộng sản Việt Nam rồi Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi được thành lập. Tiếng trống vang động ngay từ năm 1930 đã lan ra toàn tỉnh. Người Bí thư đầu tiên của Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi là đồng chí Nguyễn Nghiêm hy sinh, nhưng cuộc đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc vẫn tiếp tục phát triển. Nhiều cán bộ Quảng Ngãi cũng góp sức cho phong trào cách mạng ở các tỉnh bạn, nhất là các tỉnh Nam Trung Kỳ. Nhiều chiến sĩ cộng sản xuất hiện như những tấm gương sáng ngời trong đấu tranh cách mạng. Quảng Ngãi là nơi bùng nổ của Khởi nghĩa và thành lập Đội du kích - tiền thân của lực lượng vũ trang Liên khu V. Trong Cách mạng tháng Tám, Quảng Ngãi là nơi diễn ra cuộc Tổng khởi nghĩa sớm trong cả nước (14.8.1945) và trở thành cái nôi của vùng tự do Liên khu V trong kháng chiến chống Pháp. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Quảng Ngãi có những sự kiện quan trọng như cuộc Khởi nghĩa  và miền Tây Quảng Ngãi tháng 8.1959, Chiến thắng Ba Gia 31.5.1965, Chiến thắng Vạn Tường 18.8.1965, đánh dấu được những chiến công huy hoàng; đồng thời, Quảng Ngãi cũng là nơi chịu nhiều đau thương mất mát, điển hình là vụ thảm sát Sơn Mỹ 16.3.1968, làm chấn động dư luận thế giới và lương tâm loài người.
Trải qua các cuộc chiến tranh vệ quốc, Quảng Ngãi đã xuất hiện biết bao tấm gương hy sinh vì nước, rèn đúc được nhiều nhà lãnh đạo, nhiều vị tướng lĩnh tài ba thao lược, như Nguyễn Chánh, Trần Văn Trà, Phạm Kiệt, Trần Quý Hai, Trần Nam Trung, Nguyễn Đôn… và nổi bật là đồng chí Phạm Văn Đồng, người hiến dâng cả cuộc đời cho cách mạng và để lại dấu ấn sâu đậm trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam trong suốt nhiều thập niên của thế kỷ XX.
Quảng Ngãi không chỉ nổi bật ở truyền thống yêu nước và cách mạng, mảnh đất này còn nổi bật ở truyền thống lao động sáng tạo, truyền thống văn hóa, tinh thần hiếu học.
Từ nhiều thế kỷ trước, hàng trăm guồng xe nước trên sông Trà Khúc và sông Vệ đã được xây dựng kỳ vĩ giữa non sông, khiến khách qua đây không khỏi ngạc nhiên, khâm phục và liên tưởng đến hình ảnh của sự nhẫn nại, đức cần cù và tiềm năng sáng tạo lớn lao của người dân miền Ấn - Trà. Từ một vùng quê nhiều giông bão, lũ lụt, hạn hán, bằng bàn tay và khối óc của mình, con người nơi đây đã cải biến cả vùng đất thiên nhiên khắc nghiệt này thành nơi đất lành. Sản vật của tự nhiên qua bàn tay con người đã trở thành những món ăn đậm phong vị quê hương. Từ loài cá bống, cá thài bai nhỏ nhoi trên sông Trà mà khiến người nơi xa phải nhớ. Từ loài nhuyễn thể vùng nước lợ mà thành món don đậm hương quê nhà. Quảng Ngãi còn nổi tiếng là xứ sở mía đường, là nơi sản xuất đường phèn, đường phổi, kẹo gương, mạch nha và rất nhiều món ăn đặc sản khác. Ở miền núi thì có ốc đá, cá niêng, có rượu đót, rượu cần. Ở hải đảo thì có hải sâm và nhiều loài hải sản mặn mà vị biển. Đồng bằng có vị ngọt của mía thì miền núi có vị thơm nồng của quế  vị thơm cay của cau  vị ngọt chát của chè  vị ngọt lịm của dứa 
Vượt lên những lo toan cơm áo hằng ngày, người Quảng Ngãi biết tạo dựng nhà rường, nhà lá mái ở miền xuôi, nhà sàn ở miền núi. Những câu ca dao, điệu hò, điệu lý, hát bả trạo, sắc bùa, bài chòi ở miền xuôi; những khúc dân ca, dân nhạc miền núi; những lễ hội… cùng tạo cho cuộc sống người dân đất này thêm phần đáng yêu và mang nhiều dáng nét riêng. Quảng Ngãi là nơi sinh thành của một số nhà thơ, của các nghệ sĩ lớn của đất nước. Quảng Ngãi nổi tiếng là đất học từ xưa với nhiều nhà khoa bảng Nho học, sang thời kỳ Tân học và nền giáo dục cách mạng càng nổi lên truyền thống hiếu học với nhiều người học giỏi, nhiều người trở thành những nhà học thuật nổi tiếng trong nước.
Từ sau khi đất nước hòa bình, thống nhất, xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là từ sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương đổi mới (1986), mở cửa hội nhập khu vực, quốc tế, Quảng Ngãi đã có những bước phát triển căn bản về nhiều mặt. Quảng Ngãi đã hoàn thành công trình đại thủy nông Thạch Nham, tưới cho 50.000ha đất canh tác, tạo nên một sức bật mới cho kinh tế nông nghiệp của tỉnh. Các Khu công nghiệp Quảng Phú, Tịnh Phong hình thành. Đặc biệt, Khu Kinh tế Dung Quất trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung được xây dựng, tạo ra một bước đột phá mới cho kinh tế của tỉnh. Thị xã Quảng Ngãi đã trở thành thành phố trực thuộc tỉnh. Các cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội không ngừng phát triển. Lĩnh vực văn hóa - xã hội cũng có nhiều chuyển biến đi lên. Đời sống mọi mặt của người dân Quảng Ngãi ngày càng được nâng cao.
Sự phát triển sinh động, phong phú về nhiều mặt của Quảng Ngãi trong sự phát triển chung của đất nước là thuận lợi rất lớn nhưng đồng thời tự thân nó cũng là một thử thách không nhỏ đối với người nghiên cứu. Vấn đề đầu tiên mà những người thực hiện tự hỏi là mình nghiên cứu như thế là đã đúng, đầy đủ, tương xứng, phù hợp với hiện thực của Quảng Ngãi trong quá khứ và hiện tại hay chưa? Đây lại là công trình địa chí Quảng Ngãi đầu tiên kể từ sau Cách mạng tháng Tám đến nay. Hiểu được những khó khăn ấy, để các nhà nghiên cứu thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, Hội đồng Biên soạn công trình đã bàn bạc, đề ra nhiều giải pháp, biện pháp thực hiện đúng định hướng và có hiệu quả theo chỉ đạo của Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Hội đồng đã mời Phó Giáo sư Trần Nghĩa, Giáo sư Phan Ngọc Liên làm cố vấn chuyên môn và giúp chỉnh biên toàn bộ công trình; đã mời các nhà nghiên cứu, các cán bộ có chuyên môn vững trong tỉnh và trong nước hình thành các tổ tham gia nghiên cứu, biên soạn các phần của công trình. Một khối lượng công việc rất lớn, nhưng quỹ thời gian và điều kiện lại rất có hạn. Trong hai năm 2004 - 2005, những người thực hiện đã làm việc cật lực để công trình hoàn thành đúng tiến độ, đảm bảo chất lượng. Cho đến cuối năm 2005, công trình đã cơ bản hoàn thành khối lượng như kế hoạch đề ra, kịp ra mắt chào mừng Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lần thứ XVII.
"Địa chí Quảng Ngãi" là một công trình khoa học lớn của tỉnh nhà, với rất nhiều nội dung, trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Đối với loại công trình như thế này, bản thân những người nghiên cứu dù đã hết sức cố gắng vẫn không dám quả quyết rằng mọi thứ đều đã tốt đẹp. Dù đã nghiên cứu nghiêm túc, nhưng cho đến sau khi xuất bản, công trình vẫn rất cần sự chỉnh sửa, bổ khuyết, rất cần sự đóng góp chân thành của độc giả để ngày càng tiến đến hoàn thiện.
Thay mặt Hội đồng Biên soạn công trình, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn Ban Chỉ đạo công trình, cảm ơn các cơ quan, đơn vị, cá nhân, địa phương đã hết sức giúp đỡ, đặc biệt cảm ơn các nhà nghiên cứu đã không quản gian khó, đem hết tâm lực của mình để công trình đạt kết quả cao nhất.

TS. NGUYỄN KIM HIỆU

Chủ tịch Hội đồng Biên soạn

SÔNG NGÒI


Trên bình diện địa hình, vùng Quảng Ngãi có 04 con sông lớn là Trà Bồng, Trà Khúc, sông Vệ và sông Trà Câu. Các con sông này có đặc trưng chung là đều có hướng chảy vĩ tuyến hoặc á vĩ tuyến, phân bố khá đều trên vùng đồng bằng Quảng Ngãi
 Sông Trà Bồng
 Nằm ở phía Bắc tỉnh, bắt nguồn từ dãy núi phía Tây của huyện Trà Bồng, chảy qua huyện Bình Sơn ra biển tại của Sa Cần. Sông dài khoảng 45km, hướng chảy cơ bản từ Tây sang Đông, đoạn cửa sông hướng rẽ hướng Nam- Bắc. Phần lớn sông chảy qua vùng địa hình rừng núi có độ cao 200- 1.300m, phần còn lại chảy trong vùng đồng bằng xen đồi trọc và bãi cát. Phía thượng nguồn của sông Trà Bồng có nhiều phụ lưu gồm nhiều sông suối, đáng kể như suối Nun, suối Cà Đú, sông Trà Bói ở các xã Trà Thủy, Trà Giang. Về tới hạ lưu Đông huyện Bình Sơn có thế đất khá cao, nên sông Trà Bồng không còn chảy xiết như đoạn trên. Nước chảy lờ đờ, như vậy mà khác với sông Vệ và sông Trà Khúc, xưa kia người ta không thể đặt xe nước trên sông Trà Bồng. Đoạn gần cửa sông có những vùng có độ cao 10- 40m. Sông Trà Bồng có 5 nhánh cấp I. Ở vùng hạ lưu còn có các nhánh sông suối nhỏ chảy ngược, hợp nước vào sông chính trước khi đổ ra biển.

Nhánh suối sâu (xã Bình Minh, huyện Bình Sơn) bắt nguồn từ núi Đá Miếu (xã Bình An, huyện Bình Sơn) theo hướng Bắc- Nam, gặp sông chính tại An Phong (xã Bình Mỹ, huyện Bình Sơn), dài 19km.

Nhánh sông Bí chảy từ Đông Phước (xã Bình Thanh, huyện Bình Sơn) theo hướng Nam- Bắc, gặp sông chính ở Thượng Hà (xã Bình Thới, huyện Bình Sơn) tiếp giáp với hạ lưu và cửa sông dài 12km.

Lưu vực sông Trà Bồng bao gồm hầu hết huyện Trà Bồng và huyện Bình Sơn. Diện tích lưu vực khoảng 697km2.

Sông Trà Khúc

Nằm ở giữa tỉnh, sông Trà Khúc là sông lớn có lượng nước dồi dào nhất so với các sông khác trong toàn tỉnh. Ở thượng nguồn sông có 03 nguồn chính:

Nguồn thứ nhất từ vùng Giá Vụt phía Tây huyện Ba Tơ, chảy theo hướng Nam- Bắc, đến địa hạt huyện Sơn Hà gọi là sông Rhe. 

Nguồn thứ hai bắt nguồn từ vùng Đông Kon Tum và huyện Sơn Tây, với các suối lớn, nhỏ hợp nước với nhau chảy theo hướng Tây- Đông xuống Sơn Hà, gọi là sông Rinh (Đắk Rinh). Một nguồn nước rất quan trọng của sông Rinh là sông Tang. Sông Tang bắt nguồn từ huyện Tây Trà, chảy theo hướng Tây Bắc- Đông Nam, hợp nước với sông Rinh ở đoạn làng Lô, làng Mùng xã Sơn Bao phía Tây Bắc huyện Sơn Hà. Trên sông Tang đang xây dựng một hồ chứa nước lớn là hồ Nước Trong.

Nguồn thứ ba bắt nguồn từ Tây Nam huyện Sơn Hà giáp với huyện Sơn Tây, chảy theo hướng Tây Nam- Đông Bắc, gọi là sông Xà Lò (Đắk Sêlô).

Ba sông chính từ các hướng khác nhau cùng hợp nước ở các xã Sơn Trung, Sơn Hải, phía Đông Nam huyện lỵ Sơn Hà và đoạn sông này người ta thường gọi là sông Hải Giá. Từ Hải Giá sông chảy theo hướng Tây Nam- Đông Bắc đến Thạch Nham (giáp với 03 huyện Sơn Hà, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa) thì thoát khỏi núi non, một đoạn nữa đến thôn Hưng Nhượng xã Tịnh Đông về sau thì hướng chảy cơ bản là Tây- Đông, tuy nhiên vẫn có nhiều đoạn sông quanh gấp khúc (do vậy được gọi là sông Trà Khúc). Ở Thạch Nham, người ta đã xây dựng đập chắn ngang sông, để nước dâng lên, theo hai kênh Chính Bắc- Chính Nam chảy tưới cho các đồng bằng Quảng Ngãi. Công trình đại thủy nông Thạch Nham là một công trình thủy lợi kỳ vĩ. Xưa kia trên sông Trà Khúc từ Đồng Nhơn (xã Tịnh Đông, huyện Sơn Tịnh) đến cuối nguồn người ta đặt rất nhiều guồng xe nước lớn để tưới cho đồng ruộng. Sông Trà Khúc ở các hợp lưu thượng nguồn sông đào lòng nước dữ dội qua các thung lũng, đến hạ lưu nước vẫn chảy rất xiết cho đến khi đổ nước ra cửa Đại Cổ Lũy. Sông Trà Khúc có độ dài khoảng 135km, trong đó có khoảng 1/3 chiều dài sông chảy qua vùng núi và rừng rậm, có độ cao 200- 1.000m, phần còn lại chảy qua vùng đồng bằng.

Bởi hợp lưu từ nhiều hướng khác nhau, nên sông có dạng hình cành cây, có 09 phụ lưu cấp I, 05 phụ lưu cấp II, 06 phụ lưu cấp III và 02 phụ lưu cấp IV.

Sông Trà Khúc có diện tích lưu vực khoảng 3.240km2, bao gồm phần đất của các huyện Sơn Hà, Tư Nghĩa, một phần huyện Ba Tơ, Minh Long, Sơn Tịnh, Trà Bồng và Tây Trà, có một phần nguồn nhỏ thuộc địa phận tỉnh Kon Tum.

Trên bề mặt lưu vực sông có khoảng nửa diện tích kể từ nguồn là rừng già, còn lại là rừng thưa kiểu cao nguyên và cây bụi rậm; vùng hạ lưu là đất canh tác và đồng bằng trồng lúa chiếm diện tích khá lớn.

Sông Vệ

Bắt nguồn từ rừng núi phía Tây của huyện Ba Tơ. Sông chảy theo hướng Tây Nam- Đông Bắc, giữa các huyện Nghĩa Hành, Tư Nghĩa, Mộ Đức đổ ra biển Đông tại cửa Cổ Lũy và cửa Đức Lợi. Sông dài khoảng 90km, trong đó 2/3 chiều dài chảy trong vùng núi có độ cao 100- 1.000m. Sông có 05 phụ lưu cấp I, 02 phụ lưu cấp II. Các phụ lưu không lớn, đáng kể là:

Sông Liên bắt nguồn từ vùng núi Tây Nam huyện Ba Tơ. Sông chảy theo hướng Tây Nam- Đông Bắc, hợp nước với sông Tô ở thị trấn Ba Tơ.

Sông Tà Nô hay sông Tô chảy từ đồng Bia xã Ba Tô có độ cao trên 200m, theo hướng Tây- Đông, hợp với sông chính cách huyện lỵ Ba Tơ 18km về phía hạ lưu.

Sông Mễ chảy từ vùng núi Mum, phần tiếp giáp giữa hai huyện Ba Tơ và Minh Long theo hướng Tây Bắc- Đông Nam, hợp lưu tại khoảng làng Teng xã Ba Thành, dài khoảng 09km. Dòng chính cơ bản chảy theo hướng Tây Nam- Đông Bắc, dọc huyện Nghĩa Hành đến hết xã Hành Thiện thì sông thoát khỏi núi, chảy trên vùng đồng bằng. Tại điểm này có trạm bơm Nam sông Vệ. Đến qua đường sắt, sông chảy giữa hai huyện Tư Nghĩa- Mộ Đức. Trên sông Vệ xưa kia cũng có rất nhiều guồng xe nước. Cuối nguồn, sông Vệ đổ ra cửa Lở và cửa Đại Cổ Lũy.

Sông Vệ có một chi lưu đáng kể nhất là sông Thoa. Sông Thoa bắt đầu từ thôn Mỹ Hưng (xã Hành Thịnh, huyện Nghĩa Hành) và thôn Phú An (xã Đức Hiệp, huyện Mộ Đức) theo hướng Tây Bắc- Đông Nam đến Sa Bình (xã Phổ Minh, huyện Đức Phổ) thì nhập với sông Trà Câu rồi đổ ra biển qua cửa Mỹ Á.

Ngoài ra, còn có các nhánh sông khác như sông Cây Bứa dài 15km, sông Phú Thọ dà 16km, hợp lưu với sông chính gần vùng cửa sông tạo thành hình nan quạt. Sông Phú Thọ thực chất là đoạn sông Vệ ở cuối nguồn. Nguồn của chúng chủ yếu là nước mưa của vùng tiếp giáp giữa rừng núi và đồng bằng.

Sông Vệ có diện tích lưu vực 1.260km2, bao gồm địa hạt các huyện Ba Tơ, Minh Long, Mộ Đức, Nghĩa Hành và một phần nhỏ diện tích của huyện Tư Nghĩa. Độ cao trung bình lưu vực khoảng 170m, mật độ lưới sông 0,79km/km2.

Thực vật che phủ bề mặt lưu vực vùng thượng lưu phần lớn là rừng già, bụi rậm, vùng hạ lưu chủ yếu là vùng đất canh tác nông nghiệp.

Sông Trà Câu

Bắt nguồn từ vùng núi Ba Trang (huyện Ba Tơ), với độ cao 400m. Dòng sông chính chủ yếu chảy theo hướng Tây- Đông, đoạn trên thường gọi là sông Vực Liêm. Ở cuối nguồn, sông Trà Câu nhập lưu với sông Thoa tại Sa Bình, xã Phổ Minh, huyện Đức Phổ, rồi đổ ra cửa Mỹ Á cách đó khoảng 2,5km.

Sông Trà Câu có diện tích lưu vực 442km2, chiều dài sông khoảng 32km; chiều dài lưu vực 19km và chiều rộng bình quân lưu vực 14km. Đây là con sông nhỏ nhất trong các sông kể trên, nước thường cạn kiệt về mùa khô.

Lưu vực sông Trà Câu bao gồm một phần phía Đông và phía Đông Nam huyện Ba Tơ, các xã Phổ Phong, Phổ Thuận, Phổ Nhơn huyện Đức Phổ. Lớp phủ thực vật chủ yếu là rừng thưa và đồi trọc.

Ngoài 04 con sông chính trên, Quảng Ngãi còn có các sông nhỏ như Trà Ích (Trà bồng), sông Cái (Tư Nghĩa), sông Phước Giang (Nghĩa Hành), sông La Vân (Đức Phổ),…

Sông ngòi Quảng Ngãi đều xuất phát từ Đông Trường Sơn và chảy ra biển Đông. Dòng sông ngắn, độ dốc cao (từ 10,5 độ đến 33 độ), lòng sông cạn và hẹp nên vào mùa mưa (có lượng mưa rất nhiều) dòng chảy cường độ mạnh, thường gây ra lũ lụt lớn, gây tác hại cho sản xuất và đời sống, mặt khác cũng mang về cho đồng bằng một lượng phù sa đáng kể. Với mạng lưới sông suối dày đặc, các phụ lưu của hệ thống sông Trà Bồng, Trà Khúc, sông Vệ và Trà Câu đều bắt nguồn từ những vùng núi cao có độ dốc lớn với lượng nước nhiều là những nguồn thuỷ năng có giá trị. Ở các huyện miền núi nhân dân đã đắp đập để làm thuỷ điện.

Đặc trưng thủy văn các sông chính tỉnh Quảng Ngãi

Sông
Chiều dài sông (km)
Chiều dài
lưu vực (km)
Chiều rộng
lưu vực (km)
Diện tích
lưu vực (km2)
    Trà Bồng
45
56
12,4
697
    Trà Khúc
135
123
26,3
3.240
   Sông Vệ
90
70
18,0
1.260
  Trà Câu
32
19
14,0
442

ĐẦM 

Trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi có 03 đầm nước tự nhiên là Nước Mặn, An Khê, Lâm Bình.

Đầm Nước Mặn

​Thuộc địa phận xã Phổ Thạnh (huyện Đức Phổ), có tổng diện tích khoảng 150ha. Đây là khu vực đầm phá kiểu vịnh kín, thông ra biển tại cửa Sa Huỳnh. Là đầm nước luôn có độ mặn khá cao cả về mùa khô và mùa mưa, vì vậy có tên là đầm Nước Mặn. Với đầm này chỉ có thể nuôi trồng thủy sản nước mặn và làm muối. Vì thế, từ lâu nhân dân ở đây đã khai thác một phần diện tích của đầm để làm muối. 

Đầm An Khê

Thuộc địa phận xã Phổ Khánh (huyện Đức Phổ). Theo báo cáo khoa học điều tra nhiễm mặn vùng ven biển tỉnh Quảng Ngãi, do đài Khí tượng Thủy văn Trung Trung bộ thực hiện năm 1998 cho thấy vào mùa mưa nước trong đầm có độ mặn không đáng kể, nhưng về mùa khô là một đầm nước lợ, độ mặn từ 0,3- 10‰.

 Đầm Lâm Bình

Thuộc địa phận xã Phổ Cường (huyện Đức Phổ), có độ mặn thấp, thường dao động từ 0,2- 0,3‰; về mùa khô, những tháng nắng hạn nhất đầm bị cạn nước hoàn toàn.

 Theo tài liệu quy hoạch tổng thể nuôi trồng thủy sản năm 2002, đầm An Khê và đầm Lâm Bình có tổng diện tích 300ha, có thể sử dụng cho nuôi trồng thủy sản nước ngọt, nước mặn và cải thiện môi trường trên địa bàn.

HỒ

 Ở Quảng Ngãi hầu như không có hồ nước tự nhiên nào đáng kể, chỉ có những hồ nước được đào đắp phục vụ cho thủy điện, thủy lợi như:

Hồ An Phong

Được xây dựng từ năm 1984 tại xã Bình Mỹ, huyện Bình Sơn năng lực thiết kế tưới cho 320ha, năng lực tưới thực tế là 120ha.

 Hồ Tôn Dung

Được xây dựng năm 1978 trên nhánh suối nhỏ thượng lưu sông Liên, thuộc địa phận thị trấn Ba Tơ. Hồ có diện tích lưu vực 20km2, với diện tích tưới thiết kế là 150ha. Những năm trước, do kênh mương chưa hoàn chỉnh nên chỉ tưới được khoảng 30ha; năm 2001- 2002, đã xây dựng hoàn chỉnh tuyến kênh, mương, đảm bảo nước tưới đủ diện tích thiết kế.

 Hồ Suối Chí

Được xây dựng trên suối Chí, xã Hành Tín Đông, huyện Nghĩa Hành vào năm 2002. Năng lực tưới theo thiết kế là 250ha.



 Hồ chứa nước Sở Hầu

            ​Xây dựng năm 1976 tại xã Phổ Nhơn, huyện Đức Phổ. Năng lực tưới theo thiết kế là 400ha.

           Hồ chứa nước Núi Ngang

Xây dựng vào năm 2000 tại xã Phổ Nhơn, huyện Đức Phổ, có năng lực tưới theo thiết kế là 1.450ha

 Hồ chứa nước Liệt Sơn

Xây dựng năm 1977 trên sông Lò Bó, xã Phổ Hoà, huyện Đức Phổ tại vị trí có diện tích lưu vực 36,8km2. Năng lực tưới thiết kế là 2.500ha, thực tế tưới được 1.850ha, bằng 74% năng lực thiết kế.



  
 ĐẬP


Các công trình đập được xây dựng ở Quảng Ngãi chủ yếu phục vụ cho việc tưới tiêu nông nghiệp trên địa bàn tỉnh

 Đập Đá Giăng

Được xây dựng năm 1977 tại xã Bình Minh, huyện Bình Sơn, năng lực tưới theo thiết kế 420ha, năng lực tưới thực tế là 40ha.

 Đập Xã Điệu

Được xây dựng từ năm 1977 trên suối Xã Điệu, xã Sơn Hạ, huyện Sơn Hà, có diện tích lưu vực 17km2, năng lực tưới theo thiết kế là 350ha, thực tế tưới được 75ha do cụm đầu mối xuống cấp và kênh nội đồng bị hư hỏng nhưng chưa được tu sửa.

 Đập Cù Và

Được xây dựng từ năm 1980 trên sông Giang tại vị trí có diện tích lưu vực 84km2, có năng lực tưới theo thiết kế là 300ha cho các xã Tịnh Đông, Tịnh Giang và Tịnh Hiệp (huyện Sơn Tịnh), công trình đang hoạt động tốt.

 Đập Xã Trạch

Được xây dựng vào năm 1980 trên suối Xã Trạch, xã Sơn Thành, huyện Sơn Hà, năng lực tưới thiết kế là 150ha, nhưng thực tế chỉ tưới được 40ha do hệ thống kênh nội đồng chưa hoàn chỉnh.

Đập thuỷ lợi Thạch Nham

Đây là đập dâng thuộc loại lớn nhất trong cả nước, công trình này đã được người Pháp khảo sát từ thời Pháp thuộc. Công trình được khởi công xây dựng vào năm 1985 tại xã Sơn Nham, huyện Sơn Hà, tại vị trí có diện tích lưu vực 2.850km2 trên sông Trà Khúc.



Công trình được đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn của Nhà nước và đóng góp của nhân dân trong tỉnh bằng ngày công nghĩa vụ công ích. Năm 1992, công trình hoàn thành giai đoạn 1 và được đưa vào khai thác; đến năm 1997, công trình cơ bản hoàn thành. Hệ thống công trình gồm có: đập tràn đầu mối với chiều dài 200m, hai cửa cống lớn lấy nước qua hai hệ thống kênh chính Bắc và Nam có tổng chiều dài 87,6km; 566 tuyến kênh, gồm 28 tuyến kênh cấp I với tổng chiều dài 208,4km, 85 tuyến kênh cấp II và III (có Ft > 150ha) với tổng chiều dài 208,8km và 453 tuyến kênh nội đồng (có Ft < 150ha) với tổng chiều dài 453km. Ngoài ra, còn có 15 trạm bơm điện với tổng công suất từ 980- 1.200m3/h/1 máy, lấy nước từ các tuyến kênh cấp I, II để bơm tưới cho 4.500ha đất canh tác. Công trình thủy lợi Thạch Nham có tổng năng lực tưới theo thiết kế là 50.000ha đất canh tác, trong đó tưới cho cây lúa là 31.000ha và cho cây trồng cạn 19.000ha. Công trình tưới cho các huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Nghĩa Hành, Mộ Đức, thành phố Quảng Ngãi và một phần huyện Đức Phổ. Đến cuối năm 2005, diện tích canh tác được tưới thực tế khoảng 32.500ha, trong đó tưới cho cây lúa là 25.000ha và cây trồng cạn 7.500ha.
 Từ khi có nguồn nước tưới từ công trình thủy lợi Thạch Nham, sản xuất nông nghiệp ở khu vực đồng bằng Quảng Ngãi đã có sự thay đổi rõ rệt, cuộc sống của người nông dân trở nên khá giả hơn rất nhiều. Có thể nói, công trình thủy lợi Thạch Nham đã đem lại cuộc sống ấm no cho người dân của vùng đồng bằng Quảng Ngãi.

 Tuy vậy, ở một số vùng do địa hình cao, phức tạp, kênh bị bồi lấp nên nguồn nước Thạch Nham vẫn không tới được. Điển hình như các xã phía Đông của huyện Bình Sơn (gồm các xã Bình Đông, Bình Thạnh, Bình Thuận, Bình Hoà, Bình Hải), gặp những năm nắng hạn, đồng ruộng phải bỏ hoang vì thiếu nước. Mặt khác, do nguồn vốn đầu tư xây dựng các tuyến kênh nội đồng bị hạn hẹp, chủ yếu được làm bằng đất nên thường bị sạt, lở khi có lũ, lụt lớn.

Đập nước Lang và đập Làng

Đập nước Lang được xây dựng năm 1993 thuộc xã Ba Dinh, huyện Ba Tơ và đập Làng ở xã Hành Tín Tây (huyện Nghĩa Hành)xây dựng năm 1977. Hai đập này lần lượt có diện tích tưới thiết kế là 110ha và 80ha, song thực tế chỉ tưới được 50ha và 45ha do khi khảo sát và thiết kế ban đầu chưa đúng, đưa diện tích khu tưới lớn so với thực tế. Mặt khác, đập Làng có diện tích lưu vực quá nhỏ, chỉ khoảng 4km2 nên nguồn nước đến hạn chế.

Đập Suối Lớn

Được xây dựng trên nhánh suối Lớn thuộc xã Long Hiệp, huyện Minh Long, hệ thống được đưa vào sử dụng năm 1979. Đập có diện tích lưu vực trên 30km2, với diện tích tưới thiết kế 160ha, chiều dài kênh chính 5km. Hiện tại kênh mương đã hư hỏng nhiều nên đập chỉ tưới được 50ha, ngoài ra, một số đoạn kênh nội đồng chưa hoàn chỉnh. Cần sửa chữa, nâng cấp kiên cố hoá kênh mương thì công trình mới đảm bảo diện tích tưới theo thiết kế.

Đập Đồng Thét

Được xây dựng vào năm 1962 trên sông Phước Giang, thuộc xã Hành Nhân (huyện Nghĩa Hành), được sửa chữa lại vào năm 1975. Hiện nay, công trình đầu mối và hệ thống kênh mương đã xuống cấp nặng. Diện tích tưới thiết kế của công trình là 250ha, thực tế chỉ mới tưới được 80ha. Nguồn nước đến đập đầy đủ nhưng cần phải sửa chữa, nâng cấp lại công trình đầu mối và hệ thống kênh để công trình đảm bảo diện tích tưới thiết kế.

Đập dâng Đá Giăng
Xây dựng từ năm 1980 trên sống Trà Câu, xã Phổ Phong, huyện Đức Phổ tại vị trí có diện tích lưu vực 74,5km2, có năng lực tưới theo thiết kế 700ha, nhưng thực tế chỉ tưới được 400ha do công trình bị xuống cấp và nguồn nước thiếu. Hiện nay, công trình này được bổng sung nước từ hồ chứa Núi Ngang.
NÚI

Quảng Ngãi có rất nhiều núi cao hiểm trở. Các núi có độ cao trên 1.000m chủ yếu phân bổ ở phía Tây, Tây Bắc, Tây Nam và phía Bắc tỉnh. 
Các đỉnh núi cao ở Quảng Ngãi

Núi
Độ cao (m)
Vị Trí
Cà Đam
1.413
Tây Nam huyện Trà Bồng
A Zin
1.233
Tây Nam huyện Sơn Hà
Hà Peo
1.254
Tây Nam xã Sơn Tây (huyện Sơn Tây)
Núi Ho
1.096
Tây Bắc xã Sơn Mùa (huyện Sơn Tây)
Bờ Rẫy
1.371
Bắc xã Sơn Mùa (huyện Sơn Tây)
Ca Sút
1.262
Bắc xã Trà Lãnh (huyện Tây Trà)
Làng Rầm
1.095
Nam xã Ba Lế (huyện Ba Tơ)
Núi Mum
1.085
Tây Nam xã Long Môn (huyện Minh Long)
Cao Muôn
1.085
Tây Nam xã Ba Chùa (huyện Ba Tơ)
Tà Cun
1.428
Tây huyện Trà Bồng
Núi Roong
1.459
Đông Nam huyện Sơn Tây
Hà Tu
1.137
Nam xã Sơn Ba (huyện Sơn Hà)
Ngọc Đôn
1.064
Tây Nam xã Sơn Ba (huyện Sơn Hà)
Đá Lét
1.130
Đông Bắc xã Trà Bùi (huyện Trà Bồng)
Ra Lóc
1.063
Tây Nam xã Trà Hiệp (huyện Trà Bồng)
Núi Po
1.002
Tây Bắc xã Trà Quân (huyện Tây Trà)
Núi Y
1.017
Tây Nam xã Trà Hiệp (huyện Trà Bồng)

            Các núi của Quảng Ngãi đa dạng về hình thái, song nhìn chung thường có dạng tuyến, nhiều đỉnh nhọn, sườn dốc. Riêng dãy núi Răng cưa gồm nhiều đỉnh núi liên kết với nhau tạo thành dãy dạng răng cưa. Cấu thành các dãy núi này là các thành tạo đá xâm nhập và các đá biến chất có thành phần thạch học và tuổi khác nhau.
Một số núi ở Quảng Ngãi được xếp và hàng danh lam thắng cảnh được các thi nhân xưa đặt cho những cái tên giàu hình tượng như: “Long Đầu hí thủy”, “Thiên Ấn niêm hà”, “Thiên Bút phê vân”, “La Hà thạch trận”, “Thạch Bích tà dương”, “Vân Phong túc vũ”,… Chúng được cấu trúc bởi các đá biến chất, magma và đá phun trào bazan, là những địa điểm du lịch sinh thái có giá trị.
Các núi lớn nổi tiếng nhất gồm: Cà Đam, Thạch Bích, Cao Muôn, Núi Lớn.
Núi Cà Đam
Tên chữ của núi là Vân Phong, Cà Đam là tiếng gọi của người địa phương. Núi nằm ở phía Tây Nam của huyện Trà Bồng và phía Đông Nam của huyện Tây Trà. Đứng từ vùng đồng bằng nhìn lên phía Tây Bắc của tỉnh Quảng Ngãi thấy hình núi cao vọt lên giữa lớp lớp núi. Sách Đại Nam nhất thống chí, quyển 6 chép về tỉnh Quảng Ngãi, có viết: “hình núi cao vót lên giữa từng trời, có các núi bao quanh bốn phía trùng điệp, đứng xa trông thấy tươi sáng. Chóp núi dờn dợn mây bay, suốt ngày khí sắc như lúc trời mới sáng hay sau khi mưa tạnh”. Núi Cà Đam được xem là một trong những cảnh đẹp của tỉnh Quảng Ngãi, được Tuần vũ Nguyễn Cư Trinh làm thơ vịnh với tựa đề “Vân Phong túc vũ” (Núi Vân Phong mưa đêm”. Vân Phong hay Cà Đam là căn cứ địa của nghĩa quân dân tộc Cor chống Pháp từ năm 1938 đến năm 1945. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Cà Đam được chọn làm căn cứ địa của tỉnh, là trung tâm đầu não của cuộc khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi (tháng 8/1959).
Núi Thạch Bích
Nằm ở phía Đông Nam huyện Sơn Hà giáp với huyện Minh Long, nhìn từ vùng đồng bằng trung tâm tỉnh Quảng Ngãi lên phía Tây, núi sừng sững đứng giữa trời. Chữ Hán gọi là Thạch Bích, tên Nôm gọi là Đá Vách. Sách Đại Nam nhất thống chí của Quốc Sử quán triều Nguyễn, quyển chép về tỉnh Quảng Ngãi viết: “Thế núi chót vót, vách đá rất hiểm trở, cỏ mọc rậm rạp, chưa từng có tiều phu đến chặt củi. Buổi sớm khói mây ngưng sắc tía, suối hang ngậm màu son. Lúc mặt trời chiếu xuống, núi đá đều sáng láng như ánh sao đêm”. Trong 10 bài vịnh của thi sĩ Nguyễn Cư Trinh, khi còn làm Tuần vũ Quảng Ngãi (1750), có một bài thơ đề là “Thạch Bích tà dương” (Bóng chiều núi Thạch Bích). Thạch Bích là căn cứ chống phong kiến và thực dân của thủ lĩnh nghĩa quân Hrê trong lịch sử, đồng thời là một cảnh đẹp của Quảng Ngãi.
Núi Cao Muôn
Tên chữ Hán là Cao Môn, đọc trại thành Cao Muôn, núi cao ở vùng Ba Tơ. Sách Đại Nam nhất thống chí chép: “Thế núi cao vót lên trời, làm trấn sơn cho các núi. Đá núi rải nằm, óng ánh năm sắc, hoặc giống hình người, hình thú; hoặc giống hình cá, hình rồng. Núi này có sinh cây tượng đằng (một loại mây) lớn như cây cau. Ở dưới có khe hố thâm hiểm (…). Có một đường đi qua trên đỉnh núi có chữ bằng thẳng tương truyền đó là chỗ ông Tả quân Lê Văn Duyệt khai thác ra, nay vẫn còn”.

Xưa kia, núi Cao Muôn là căn cứ chống phong kiến, đế quốc của nghĩa quân dân tộc hrê. Sau tháng 3/1945 là căn cứ của Đội Du kích Ba Tơ.
Núi Lớn
Tên chữ Hán là Đại Sơn, nằm ở phía Tây huyện Mộ Đức. Sách Đồng Khánh địa dư chí chép: “Rặng núi uốn lượn, dài 70 dặm, gồm 81 ngọn, 36 con suối. Ngọn ở giữa rất cao. Núi lớn là ngọn núi nổi tiếng của huyện và là núi tổ của các ngọn núi từ giữa huyện chạy về phía Bắc. Về phía Đông Bắc, núi nhô lên thành hai ngọn Nê Nguyên và Lỗ Tây, qua hẻm núi rồi lại nhô lên, thành núi Bắc Dương”. Năm 1924, rừng núi Lớn được đặt thành rừng cấm. Trước Cách mạng tháng Tám 1945, núi Lớn được chọn làm một trong hai chiến khu của Đội Du kích Ba Tơ.

Nguồn số liệu trên lấy từ kết qủa Tổng điều tra dân số và nhà ở tỉnh Quảng Ngãi ngày 01/4/2010 của Cục Thống kê Quảng Ngãi.
Cơ sở hạ tầng
        1. Đường bộ: 
Quốc lộ 1A: đoạn chạy qua tỉnh: 98km

Quốc lộ 24A: Nối liền Quốc lội 1A (đoạn qua Thạch Trụ, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi) với KonTum dài 69km và Quốc lộ 24B dài 18km.

 Đường Đông Trường Sơn đi qua 02 xã Sơn Mùa và Sơn Bua, huyện Sơn Tây với tổng chiều dài 13 km sẽ hoàn thành trong năm 2008.

Tỉnh lộ: Gồm 18 tuyến với tổng chiều dài 520,5km

Đường ven biển Dung Quất- Sa Huỳnh đi qua các huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Mộ Đức, Đức Phổ và thành phố Quảng Ngãi, với chiều dài khoảng 117 Km. Có điểm đầu tại ranh giữa hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi thuộc Khu kinh tế Dung Quất và điểm cuối giao với Quốc lộ 1A tại Km1116 thuộc Sa Huỳnh, huyện Đức Phổ. Đây là tuyến đường góp phần quan trọng khơi dậy tiềm năng vừa phát triển kinh tế - xã hội dọc vùng ven biển, nâng cao đời sống người dân, vừa gắn với củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh ở khu vực này.
 Đường nội KKT Dung Quất: có tổng chiều dài trên 60km. Từ nay đến năm 2010, tiếp tục đầu tư xây dựng hoàn thành các tuyến đường đang triển khai đầu tư và các tuyến đường đã quy hoạch. Xây dựng đường Dung Quất nối với đường Hồ Chí Minh theo hướng Trà My - Trà Bồng - Bình Long - Ngã ba Nhà máy lọc dầu - cảng Dung Quất. Quy hoạch và xây dựng tuyến đường Trị Bình - cảng Dung Quất và một số tuyến đường trục chính của đô thị Vạn Tường.
 2. Đường Sắt:
 Tuyến đường sắt Bắc - Nam: chạy suốt chiều dài tỉnh.
3. Đường hàng không:                                 

Sân bay Chu Lai (Tỉnh Quảng Nam) cách Thành phố Quảng Ngãi 35km, cách Khu kinh tế Dung Quất 04km về hướng Bắc.  

4. Hệ thống cảng biễn:                                                                                                    

Cảng biển nước sâu Dung Quất:  với lợi thế kín gió, cách tuyến hàng hải quốc tế 90km, tuyến nội hải 30km và độ sâu từ 10-19m, cảng Dung Quất đã được thiết kế với hệ thống cảng đa chức năng gồm:
Khu cảng Dầu khí với lượng hàng hóa thông qua là 6,1 triệu tấn dầu sản phẩm/năm và xây dựng 01 bến phao để nhập dầu thô cho tàu dầu có trọng tải từ 80.000 tấn - 110.000 tấn tại vịnh Việt Thanh; cảng chuyên dùng gắn với Khu công nghiệp liên hợp tàu thủy, khu xây dựng Nhà máy Luyện cán thép và các Nhà máy Công nghiệp nặng.
Cảng tổng hợp được chia thành 2 phân khu cảng: phân khu cảng Tổng hợp 1 ở ngay sau Khu cảng Dầu khí, đảm bảo cho các tàu có trọng tải từ 5.000 tấn - 50.000 tấn ra vào; phân khu cảng Tổng hợp 2 ở phía Nam vịnh Dung Quất, bên tả sông Đập.
Khu cảng Chuyên dùng gắn với Khu công nghiệp liên hợp tàu thủy, khu xây dựng Nhà máy Luyện cán thép và các Nhà máy Công nghiệp nặng.
Khu cảng Thương mại phục vụ cho Khu bảo thuế và 01 cảng trung chuyển container quốc tế nằm tại vị trí giữa Khu cảng Chuyên dùng và Khu cảng Tổng hợp để đón tàu có trọng tải từ 10 - 15 vạn DWT.
Cảng Dung Quất được đầu tư xây dựng để bảo đảm khối lượng hàng hóa thông qua khoảng 20 triệu tấn/năm vào năm 2010 và khoảng 34 triệu tấn/năm vào năm 2020 Hiện nay đang vận hành bến tổng hợp cho tàu 1,5 vạn DWT.
* Ngoài ra, với bờ biển dài 144 km, Quảng Ngãi có nhiều cửa biển, cảng biển nhỏ như: Sa Kỳ, Sa Cần, Bình Châu, Mỹ Á,… có tiềm năng về giao thông đường thủy, thương mại và du lịch.
DÂN CƯ - DÂN TỘC
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ PHÂN BỐ DÂN CƯ, DÂN TỘC
Quá trình hình thành, phát triển và phân bố dân cư, dân tộc trên địa bàn Quảng Ngãi từng có các lớp dân cư cổ sinh sống: cư dân Sa Huỳnh, cư dân Chămpa, kế đó là dân cư Việt (Kinh) chiếm vị trí chủ đạo.
Người Kinh hiện diện ở Quảng Ngãi bắt đầu chủ yếu từ thế kỷ XV trở đi, đa số là những nông dân ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, vùng Thanh - Nghệ di cư vào khẩn hoang đất đai, lập thành làng mạc.
Dưới thời các chúa Nguyễn, có một số người Hoa từ các vùng Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu, Hải Nam (Trung Quốc) đến sinh sống ở Thu Xà, các cửa biển Sa Cần, Sa Huỳnh và một số điểm ở trung du. Người Hoa đóng vai trò tương đối quan trọng trong sự phát triển kinh tế của vùng đất Quảng Ngãi thời bấy giờ thông qua hoạt động buôn bán thịnh đạt ở Thu Xà. Nhưng trải qua các cuộc chiến tranh, người Hoa phần đã phiêu tán đi nơi khác, phần hòa nhập và cộng đồng người Việt, không còn các cộng đồng làng xã đặc thù.
Dưới thời Pháp thuộc, cho đến hết năm 1975, có một số người Pháp, Mỹ, Ấn Độ, Chà Và (Java) đến sống ở Quảng Ngãi, nhưng chủ yếu là chuyển cư tạm thời, hoặc không thành cộng đồng riêng. Do vậy, ở vùng đồng bằng tỉnh Quảng Ngãi, ngoài dân tộc Việt là đáng kể nhất, không có cộng đồng nào khác.
Ở miền núi, về dân tộc có sự ổn định hơn. Miền núi Quảng Ngãi có các dân tộc Hrê, Cor, Ca Dong sinh sống; họ là cư dân bản địa lâu đời, sống theo từng khu vực và có sự đan xen nhất định, có sự giao lưu, buôn bán với nhau và với người Việt ở miền xui lên buôn bán, khai khẩn. Tư sau năm 1975, có một ít người các dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc vào, song chỉ là đơn lẻ và hòa nhập vào các cộng đồng địa phương. Do vậy, nói đến dân cư, dân tộc ở miền núi Quảng Ngãi cũng chỉ đề cập chủ yếu đến các dân tộc Hrê, Cor, Ca Dong và Kinh.
Đến năm 2005, dân tộc Kinh chiếm 88,8%, Hrê 8,58%, Cor 1,8%, Ca Dong 0,7%; số người thuộc 13 dân tộc thiểu số khác chỉ chiếm 0,12% dân số. Do vậy, nếu tính về dân tộc thì ở Quảng Ngãi có đến 17 dân tộc, nhưng thực chất cũng chỉ có 4 dân tộc có số lượng cư dân đáng kể. Nhìn chung, khối cộng đồng dân cư Quảng Ngãi phát triển theo tiến trình của lịch sử, cùng đoàn kết, chung sức chung lòng trong công cuộc chống phong kiến - đế quốc, dựng xây quê hương giàu đẹp.
II. THÀNH PHẦN DÂN TỘC
1. DÂN TỘC KINH (VIỆT)                               
Tộc danh chính thức gọi là Việt, nhưng để phân biệt với các dân tộc thiểu số, thì người Việt thường được gọi là người Kinh.
Có thể cư dân Việt đã có mặt đầu tiên ở Quảng Ngãi vào đầu thế kỷ XV. Năm 1402, qua cuộc xung đột giữa phong kiến Đại Việt và phong kiến Chămpa, vua Chămpa nhượng hai châu Chiêm Động và Cỗ Lũy Động cho nhà Hồ. Hồ Qúy Ly đổi đặt thành 4 châu Thăng, Hoa (Quảng Nam), Tư, Nghĩa (Quảng Ngãi). Hồ Qúy Ly ra lệnh cho dân có của cải mà không có ruộng đất ở vùng Nghệ An, Thanh Hoá đem vợ con di cư vào vùng đất mới để khai khẩn; việc di dân này phần nào có tính bắt buộc. Những người không có của cải, phương tiện canh tác thì nhà Hồ cấp phát trâu cho họ. Nhà nước vận động dân chúng: ai có trâu đem hiến nộp sẽ được cấp phẩm tước. Hồ Qúy Ly bắt buộc những người nông dân di cư không được quay về bản quán, sau khi đã thích dấu hiệu lên cánh tay của họ. Các sử sách chép rằng: chữ Châu được thích lên cách tay những người lưu dân. Đây là cuộc di dân đầu tiên của người Kinh đến vùng đất Quảng Ngãi.
Năm 1472, sau cuộc chinh phạt Chămpa của vua Lê Thánh Tông, vùng đất từ nam đèo Hải Vân đến núi Thạch Bi nằm trong sự quản lý của Đại Việt và được đặt thành đạo thừa tuyên Quảng Nam, gồm có 3 phủ: Thăng Hoa, Tư Nghĩa và Hoài Nhân. Nhà Lê chiêu mộ dân chúng vào khai khẩn đất hoang và đồng thời khuyến khích quan lính ở lại mở mang đồn điền, phát vãng những tù nhân lưu đày vào nơi đây. Đây là những nguồn nhân lực chủ yếu để khai phá vùng đất mới. Nhà nước không có chế độ hạn điền, cho phép dân chúng mặc sức khai khẩn đất đai, cho phép thu lợi 3 năm trên vùng đất ấy rồi mới thu thuế. Đây là cuộc di dân lần thứ 2 của người Kinh đến vùng đất Quảng Ngãi. Cuộc di dân này rất quan trọng; đây là thời điểm bắt đầu hình thành nên những làng người Việt và những dòng họ lớn ở trên vùng đất thừa tuyên Quảng Nam.
Thời chúa Nguyễn, cư dân Việt ở Quảng Ngãi tương đối ổn định nhưng vẫn còn thưa thớt. Với ý đồ cát cứ phương Nam, chúa Nguyễn tiếp tục khuyến khích dân Việt từ vùng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ ngày nay vào đây khai khẩn, lập nghiệp. Năm 1648, chúa Nguyễn đánh thắng chúa Trịnh ở Quảng Bình, bắt sống 30.000 quân lính, phiên đặt họ cứ 50 người thành một ấp, dọc theo bờ biển, bắt đầu từ Quảng Nam trở vào phía nam. Dấu vết của làng Việt này còn thấy ở làng Tráng Liệt (huyện Tư Nghĩa) mà gia phả còn truyền lưu.
Quá trình phát triển của dân tộc Kinh, được trình bày trên, là qúa trình phát triển lâu dài theo chiều thời gian, cụ thể là càng ngày cư dân càng phát triển lớn về số lượng.
Vùng cứ trú hiện nay của người Kinh tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng và các thị tứ, thị trấn ở miền núi tỉnh Quảng Ngãi; một số sinh sống đan xen với người dân tộc thiểu số ở miền núi. Khu vực đồng bằng, dân tộc Kinh có khoảng 1.077.841 người, chiếm 83,7% dân số toàn tỉnh và chiếm 94,8% tổng số dân tộc Kinh ở Quảng Ngãi.
Bảng dân số và phân bổ dân số theo địa bàn của người Kinh (31.12.2005)
Huyện, thành phố
Tổng số (người)
Dân tộc Kinh (người)
Quảng Ngãi
123.505
123.230
Bình Sơn
180.730
180.254
Sơn Tịnh
195.361
195.325
Tư Nghĩa
181.951
180.140
Nghĩa Hành
100.233
99.489
Mộ Đức
145.319
145.272
Đức Phổ
154.208
154.131
Trà Bồng
29.417
18.590
Tây Trà
15.825
258
Sơn Hà
66.389
11.469
Sơn Tây
15.604
1.138
Minh Long
15.006
3.998
Ba Tơ
48.891
5.785
Lý Sơn
20.158
20.051

2. DÂN TỘC HRÊ
Hrê là tộc người có số dân đứng thứ hai trong tỉnh Quảng Ngãi sau dân tộc Kinh.
Đến năm 2005, dân số Hrê ở Quảng Ngãi có 112.947 người, cư trú ở các huyện Trà Bồng, Tây Trà, Sơn Hà, Sơn Tây, Ming Long, Ba Tơ, Nghĩa Hành và Tư Nghĩa. Tuy địa bàn cư trú phân bố rộng như vậy nhưng dân tộc Hrê cư trú tập trung ở các huyện Sơn Hà, Ba Tơ, Minh Long. Người Hrê sống đan xen với người Kinh ở vùng tây các huyện Nghĩa Hành, Tư Nghĩa. Các làng Hrê đan xen với người Ca Dong ở địa bàn phía đông huyện Sơn Tây và sống đan xen với người Cor ở các xã phía nam của huyện Trà Bồng. Ngoài ra, một vài nhóm nhỏ của dân tộc Hrê cư trú ở huyện Kon Plong (tỉnh Kon Tum) và huyện An Lão (tỉnh Bình Định).
Hrê là tộc danh chính thống của dân tộc này. Trước kia dưới thời triều Nguyễn và Pháp thuộc, người Hrê được gọi bằng những phiếm danh, có ý khinh miệt, như "Mọi Đá Vách", "Mọi Thạch Bích", "Mọi Sơn Phòng", “Thượng Ba Tơ", "Mọi Lũy", "Mọi Chòm", "Chăm Rê", "Chăm Quảng Ngãi"... Tuy nhiên, tên tự gọi của đồng bào Hrê thường theo tên của dòng sông lớn trong vùng. Chẳng hạn ở Minh Long có sông Rvá nên nhóm Hrê ở đây gọi là người Rvá; ở Ba Tơ có sông Liên nên gọi là người Nước Liên và nơi có sông Rhe thì gọi là người Hrê; ở Sơn Hà có sông Krế nên gọi là người Krế. Lưu vực sông Rhe được coi là ngọn nguồn của dân tộc. Sau cách mạng tháng Tám 1945 được thống nhất chung tên gọi dân tộc Hrê.
Theo truyền thuyết, nguồn gốc dân tộc Hrê gắn với núi Cao Muôn (huyện Ba Tơ) và núi Mum (huyện Minh Long). Tiếng Hrê thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơme và thuộc ngành ngôn ngữ Bahnaric trong khu vực bắc Tây Nguyên. Tỷ lệ từ chung khá cao bên cạnh một số biểu hiện tương đồng giữa tiếng Hrê với tiếng Ba Na và Xơ Đăng. Đặc biệt, trong cộng đồng người Hrê còn lưu truyền văn tự cổ sơ nhất, là "văn tự thắt gút" bằng các gút mây buộc thắt (để đếm).
Người Hrê định cư thành từng làng (plây) với quy mô lớn nhỏ khác nhau. Làng Hrê xây dựng ven triền đồi, phía dưới là thung lũng. Địa bàn cư trú nằm kề sát khu vực đất đai canh tác và gần nguồn nước. Đồng bào chỉ di chuyển làng khi có dịch bệnh. Nhà sàn Hrê nằm bố trí lớp lớp từ thấp lên cao, dựng ngang triền đồi, nằm gọn trên khoảnh đất cao ráo, thoáng đãng. Vòng rào làng xưa kia bao quanh vốn ken dày, dựng cao lên nhằm canh phòng kẻ gian và thú dữ, nay đã biến thành bờ dậu của từng nhà, hoặc vẫn rào quanh làng, nhưng chỉ để ngăn gia súc.
Trong xã hội truyền thống của người Hrê, làng là đơn vị cư trú, đồng thời là cộng đồng tự quản với những thiết chế sinh hoạt đã định hình từ lâu. Mỗi làng đều có chủ làng (krăng plây), là người lớn tuổi am hiểu nhiều kinh nghiệm, có uy tín, gia đình thuộc loại giàu có trong làng. Chủ làng là người cùng với thầy cúng (pơ dâu) tổ chức các lễ cúng của làng. Cá nhân chủ làng đứng ra chịu trách nhiệm tổ chức bắc máng nước, làm đường, rào làng, hướng dẫn việc sản xuất, giải quyết các vụ xử phạt, tổ chức chuyển làng... Để làm những việc đó, chủ làng bàn bạc cùng với các thành viên trong hội già làng. Chủ làng hòa mình vào trong đời sống của cộng đồng. Dân làng dành cho chủ làng sự kính trọng và giúp đỡ chủ làng khi ngày mùa bận rộn... Chủ làng là chức vụ bầu theo lối dân cử, không theo nguyên tắc cha truyền con nối. Mỗi làng Hrê đều có thầy cúng là người thông thạo việc cúng tế thần linh. Ngoài ra ở mỗi gia đình, dòng họ đều có tộc trưởng, đó là những người già đứng đầu gia đình dòng họ. Các tộc trưởng quy tụ trong hội đồng già làng. Chủ làng bàn bạc công việc sản xuất, xử kiện... với các thành viên trong hội đồng già làng. Cuối cùng là các thành viên trong làng, những thành viên này cùng đoàn kết tương trợ lẫn nhau trong một khối cộng đồng thống nhất.
Xã hội truyền thống xưa kia của người Hrê có sự phân hóa giàu nghèo, do chênh lệch về ruộng đất, về lao động và về thu nhập giữa các hộ gia đình. Trong xã hội đó có bốn tầng lớp người: người giàu (proong), người đủ ăn có chút ít dư thừa (lắp ká), người thiếu ăn, kinh tế khó khăn (pa), người đi ở vì nợ, nô lệ vì nợ (hapoong, dik). Lắp ká pa thường chiếm tỉ lệ chủ yếu trong cộng đồng Hrê. Tuy nhiên, những hộ thiếu ăn thường xuyên có khi rơi vào trường hợp đi ở vị nợ. Proong- người giàu và hapoong - người đi ở vì nợ thường chiếm tỉ lệ ít trong làng. Tiêu chí người giàu được xác định là người có nhiều ruộng rãi tốt, có nhiều trâu, lợn, gà, nhiều chiêng, ché quý, có kho thóc to, nhà cửa dài rộng, lễ tết có mặc đồ đẹp, mang nhiều trang sức. Tuy nhiên, người giàu trong xã hội Hrê thường không phải từ bóc lột mà chủ yếu từ sự lao động sản xuất cần cù, tích lũy của cải bằng khả năng lao động của chính mình. Hapoong là lớp người cùng cực nhất trong xã hội Hrê trước kia, vì nợ nần không trả được họ phải ở làm trả công cho chủ nợ, thường bị đối xử thấp hơn so với các thành viên khác trong làng. Ngày nay, trong cộng đồng Hrê không còn sự phân biệt giữa các tầng lớp người như trên.
Nhìn chung, xã hội Hrê vẫn mang tính cộng đồng nhất, đoàn kết gắn bó giữa các thành viên. Điều này thể hiện ở các hình thức vần đổi công, tương trợ, tục chia sẻ trong ăn uống lễ tết, sự quan tâm giúp đỡ lẫn nhau. Sự liên kết giữa các gia đình cũng như sự gắn bó của mỗi thành viên với làng dựa trên quan hệ thân tộc hoặc quan hệ làng giềng.
Nguồn kinh tế đem lại thu nhập quan trọng nhất trong đời sống của người Hrê là nông nghiệp trồng lúa nước. Các cánh đồng trồng lúa thường nằm men theo triền đồi thấp, tạo thành những vùng ruộng bậc thang đặc trưng. Do địa bàn cư trú xen giữa đồi núi và thung lũng nên người Hrê tận dụng địa hình để mở mang đồng ruộng rất đa dạng, có ruộng trên các dải đất cao, ruộng lầy ngập nước quanh năm, ruộng bậc thang nhỏ hẹp…Trên vùng ruộng đó gieo cấy các loại giống lúa nước mỗi năm hai vụ, nhưng phần lớn chỉ làm được một vụ. Canh tác ruộng nước của người Hrê bằng phương pháp cuốc, cày, bừa, cấy mạ… tương tự như người Kinh ở Quảng Ngãi. Đặc biệt, phương pháp đắp đập, dẫn thủy nhập điền của người Hrê khá phát triển. Người ta dẫn nước về ruộng bằng con mương đào dài hàng kilômét theo phương pháp thế năng. Ngoài ra, người dân còn làm đập bổi hay kè đá để nước dân lên ruộng. Ruộng nước được canh tác hai vụ, vụ đông – xuân thu hoạch từ tháng 4 đến tháng 5, vụ hè – thu thu hoạch từ thánh 8 đến tháng 9 Âm lịch.
Nguồn thu nhập từ rẫy chiếm vị trí thứ hai sau thu nhập hoa lợi ruộng nước và cũng đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống của người Hrê. Một vụ lúa rẫy kéo dài từ tháng 3, tháng 4 đến tháng 8, tháng 9. Lúa rẫy được canh giữ chim thú từ khi còn nhỏ đến khi thu hoạch. Người ta làm chòi rẫy để giữ lúa, để nghỉ ngơi, tránh nắng mưa khi đang mùa sản xuất và chứa tạm sản phẩm thu hoạch trong lúc chưa kịp chuyển về làng. Rẫy canh tác theo lối luân canh, mỗi đám rẫy chỉ canh tác một vụ rồi trồng thứ khác hoặc bỏ hoang từ 3-5 năm, đợi rừng tái sinh mới canh tác tiếp, rồi lại bỏ hoang hóa…
Nghề thủ công cũng góp phần bổ sung quan trọng trong đời sống kinh tế tự cung tự cấp. Nghề thủ công truyền thống của người Hrê gồm có nghề dệt, đan lát. Đan lát là nghề của đàn ông, sản phẩm đan lát là các đồ dùng trong sản xuất và sinh hoạt hàng ngày. Chăn nuôi gia súc, nhất là chăn nuôi trâu và chăn nuôi gia cầm tương đối phát triển. Sản phẩm chăn nuôi dùng trong buôn bán trao đổi, làm thực phẩm và dùng trong nghi lễ. Vùng cư trú của người Hrê nằm ở vị trí thông thương với Tây Nguyên xuống và đồng bằng lên nên rất thuận lợi trong trao đổi buôn bán. Thương nhân các nơi khác, nhất là người ở vùng xuôi qua lại từng làng Hrê mua hạt cau khô, hồ tiêu, mật ong, trầu, vải dệt… và bán công cụ sắt, áo quần, muối, chè, đồ trang sức…
Bảng dân số và phân bổ dân số Hrê theo địa bàn (thời điểm 21.12.2005)
Huyện, thành phố
Tổng số (người)
Dân tộc Hrê (người)
Quảng Ngãi
123.505
57
Tư Nghĩa
181.951
1.764
Nghĩa Hành
100.233
713
Trà Bồng
29.417
235
Tây Trà
15.825
473
Sơn Hà
66.389
54.403
Sơn Tây
15.604
1.232
Minh Long
15.006
11.004
   Ba Tơ
48.891
43.066
3. DÂN TỘC COR
            Dân tộc Cor là dân tộc có số dân đông thứ ba trong tỉnh Quảng Ngãi và là dân tộc có số dân đông thứ hai trong các dân tộc thiểu số, sau dân tộc Hrê. Năm 2005, dân tộc Cor trong tỉnh Quảng Ngãi có hơn 24.550 người.
Địa bàn cư trú của dân tộc Cor ở các huyện Trà Bồng, Tây Trà của tỉnh Quảng Ngãi và một số ít của huyện Trà My tỉnh Quảng Nam. Xưa kia, người ta hay gọi người Cor là người Cua, người Trầu. Sau này, căn cứ vào phát âm khác nhau, người ta cũng ghi là Co, Cool, Kor…Tên tự gọi của dân tộc là Cor, là tộc danh chính thức. Đồng bào có ý thức tự giác tộc người cao, có ý bản địa và tự hào về truyền thống của tổ tiên. Người Cor có ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Môn-Khơme và thuộc nhóm ngôn ngữ Bahnaric phía bắc.
Đơn vị cư trú của người Cor là làng (plây). Plây bao gồm phần thổ cư của làng và tất cả các loại đất đai sản xuất hay không sản xuất, rừng núi, suối sông trong một phạm vi được xác định. Ranh giới của làng được truyền khẩu qua nhiều thế hệ, có khi là dòng sông suối hay gốc cây, tảng đá, đỉnh núi, con đường mòn… Toàn thể dân làng có quyền săn bắn, hái lượm, bắt cá, đốn gỗ, dùng nước, canh tác rẫy, làm vườn trên đất làng. Các làng thường nằm cheo leo trên sườn núi, làng có tên gọi riêng theo tên người đứng đầu làng, theo tên sông, suối, tên đất, tên rừng, cũng có tên làng phản ánh đặc điểm nào đó của nơi cư trú. Tuỳ thuộc chu kỳ quay vòng canh tác rẫy, đồng bào phải di chuyển chỗ ở, nhưng chỉ chuyển quanh trong khu vực đã xác định của làng mình.
Thiết chế xã hội truyền thống của người Cor là đơn vị tự quản. Đứng đầu là chủ làng (Kà răh plây), là người có uy tín cao, giàu kinh nghiệm làm ăn, giàu có, xử lý tốt các vụ tranh chấp và là dân gốc. Nhiệm vụ của chủ làng là đôn đốc sản xuất cũng như bảo vệ làng, tổ chức lễ cúng tập thể cùng các nghi thức tôn giáo khi chuyển làng, dàn xếp bất hòa nội bộ hoặc xích mích giữa làng đối với bên ngoài, chủ trì giải quyết các vụ vị phạm luật tục. Sự kính trọng của dân làng đối với vị đứng đầu làng của mình được thể hiện qua cư xử hàng ngày, qua việc mời ăn uống, việc tín nhiệm khi bàn bạc công việc chung hay riêng. Trong không gian nhà dài ( nhà xlúp), chủ làng thường ở khoảng giữa nhà để tiện điều hành sinh hoạt và liên hệ với các hộ khác. Trong làng có nhiều dòng họ kế tiếp nhau làm chủ làng, có thân thế mạnh trong cộng đồng người Cor. Trong hoàn cảnh xưa kia, vùng người Cor hay xảy ra xung đột, cướp phá, nên việc tổ chức làng tự vệ là yêu cầu rất cần thiết. Trong làng các trai tráng khoẻ mạnh họp thành nhóm dũng sĩ (gọi là lôk lôk, lôk kal - người dũng cảm, người can đảm). Đó là những thanh niên đàn ông khoẻ mạnh, có tài bắn nỏ, giỏi phóng lao đứng ra tập hợp trai làng bố phòng và chiến đấu. Nhiệm vụ của nhóm dũng sĩ là chống lại những kẻ phá hoại cuộc sống ổn định trong làng và chống giặc cướp, giữ gìn an ninh trong vùng.
Nội bộ làng Cor bao gồm các quan hệ láng giềng và quan hệ thân tộc cùng tồn tại và chi phối đời sống con người. Người trong làng, phần đông là họ hàng, dâu rể xa gần, quan hệ chằng chéo với nhau; số người thuần túy cộng cư, không có liên hệ huyết thống hay hôn nhân với gia đình khác chỉ là số người rất ít ỏi. Hình thái gia đình nhỏ của người Cor phát triển phổ biến, bên cạnh đó còn một ít tàn dư gia đình lớn. Tộc trưởng là người đóng vai trò quan trọng trong việc điều hành đời sống gia đình, giao tiếp với khách, cùng đại diện của các gia đình khác họp bàn, giải quyết những công việc chung dưới sự chủ trì của chủ làng. Trước đây, hàng chục gia đình cùng dòng họ, hoặc thân thiết, chung sức làm thành một nhà sàn dài trên sườn đồi, bên suối nước, gần nương rẫy. Mỗi nhà sàn gọi là một nóc, mang tên người đứng đầu nóc. Mỗi nóc chia thành nhiều cửa, mỗi cửa là một bếp, mỗi bếp là một nơi cư trú của một gia đình.
Đặc trưng sinh hoạt kinh tế của người Cor là lấy kinh tế nương gẫy làm nguồn thu nhập chính. Đồng bào có nhiều giống lúa rẫy. Lúa rẫy gieo trồng vào tháng 5, thu hoạch vào tháng 10. Bắp và mì cũng được trồng trên rẫy. Bắp thường tỉa hạt vào tháng 4 và tháng 12.  Đó là giống bắp hạt đỏ, hai thánh rưỡi thu hoạch, là nguồn lương thực cứu đói trong thời kỳ giáp hạt. Vùng canh tác của người Cor có độ dốc khá lớn, bị xói mòn nhanh theo những trận mưa dữ dội nên người Cor chỉ gieo trồng một vụ đã phải bỏ hoá một vài năm. Đồng bào quay vòng canh tác luân khoảnh trên diện tích khác. Loại rẫy định canh không nhiều. Đó là những mảnh đất ít dốc hay tương đối bằng, có thể sử dụng liên tục, thường để trồng thuốc lá, ngô, sắn, cây ăn quả. Với phương pháp đa canh, xen canh, rẫy cho nhiều loại sản phẩm, đáp ứng phần lớn nhu cầu thiết yếu hàng ngày, từ lương thực cho đến rau xanh, trái cây, thuốc hút, thuốc bệnh.
Vùng người Cor nổi tiếng về giống trầu không và quế. Trầu vừa nhiều vừa ngon, là một nguồn hàng quen thuộc được thương khách miền xuôi ưa thích. Trầu góp phần tăng cường quan hệ giao lưu giữa đồng bằng với vùng núi. Chính vì thế mà đồng bào Cor còn có tên gọi là tộc người Trầu. Đặc biệt, người Cor có nhiều rừng quế bạt ngàn, gồm các loại chính: quế rừng mọc tự nhiên trong núi, quý giá, nhưng hiếm; quế thanh hay quế đắng, quế bùi được trồng nhiều. Người Cor trồng cây quế bằng phương pháp ươm hạt. Mùa trồng quế có mưa nhiều, vào những tháng cuối năm. Thường trên 10 năm, thậm chí 15-20 năm, quế mới đến “tuổi” lột vỏ. Thu hoạch quế khá vất vả, phải trèo leo, nên chủ yếu là công việc của đàn ông. Người ta dùng dao tiện vòng tách vỏ ra. Vỏ quế phơi trong bóng rợp, ủ và phơi úp dưới nắng nhạt. Quế khô bó lại thành từng bó. Quế rừng được bảo quản cẩn thận hơn, thường để trong ché lớn có nắp đậy kín. Quế rừng là loại thượng hạng, đắt nhất, bởi giá trị trội vượt của nó. Quế nách được lấy từ chỗ chạc cây, chạc cành. Trong điều kiện rẫy không cung cấp đủ và ổn định được lúa và hoa màu, ít ruộng, thiếu những nghề phụ góp phần bảo đảm nuôi sống con người, nên cây quế có vai trò rất quan trọng đối với người Cor.

Bảng dân số và sự phân bố dân số của dân tộc Cor
(thời điểm 31.12.2005)
Huyện
Tổng số (người)
Dân tộc Cor (người)
Bình Sơn
180.730
419

Trà Bồng

29.417
10.430
Tây Trà
15.825
13.580
Sơn Hà
66.389
134

4. DÂN TỘC CA DONG
Ca Dong là tộc người có số dân đứng thứ tư trong tỉnh Quảng Ngãi.
Địa bàn cư trú của tộc người Ca Dong phân bố ở các huyện Sơn Tây (Quảng Ngãi), Sa Thầy, Kon Plong (Kon Tum), Trà My (Quảng Nam). Tộc người Ca Dong là một nhóm địa phương của dân tộc Xơ Đăng, thuộc ngữ hệ Môn – Khơme và thuộc nhóm ngôn ngữ Bahnaric.
Hiện nay với mức độ tài liệu hiện có, chúng ta có thể tin rằng những tộc người thuộc dân tộc Xơ Đăng có lịch sử cư trú lâu đời trên vùng đất bắc Tây Nguyên – nam Trường Sơn, trong đó tộc người Ca Dong có địa bàn cư trú phân tán nhất, có thể ban đầu địa bàn cư trú của họ nằm quanh dãy núi Ngọc Linh, chạy dài từ huyện Trà My (Quảng Nam) đến bắc Kon Plông (Kon Tum), sau đó đã có một bộ phận đến cư trú ở vùng huyện Sa Thầy, Đắk Glây (Kon Tum) và huyện Sơn Tây (Quảng Ngãi). Việc chuyển cư của tộc người Ca Dong được lưu lại qua truyền thuyết dân gian về câu chuyện hai anh em bất hòa nhau vì ăn thịt một con dúi (con chúc), sau đó chia hai, người anh ở lại phía tây dãy Ngọc Linh trở thành tổ tiên của nhóm Ca Dong ở Sa Thầy, Đắk Glây; người em đi về phía đông phát triển nòi giống là tổ tiên của nhóm ở Sơn Tây, Trà My, Kon Plông. Người Ca Dong có truyền thuyết (amon) về nguồn gốc phát xuất của tộc người giống nhau. Đó là câu chuyện về người đàn bà duy nhất còn sống sót sau nạn đại hồng thuỷ nhờ chạy tránh lên đỉnh núi cao nhất trong vùng và người đàn bà ấy là thuỷ tổ - người mẹ của dân tộc. Tộc danh Ca Dong có nghĩa là người sống trên núi cao. Ý nghĩa của tộc danh này cũng đã phản ánh địa bàn cư trú của người Ca Dong quanh vùng núi Ngọc Linh hùng vĩ, và trên đỉnh mái nhà phía tây của tỉnh Quảng Ngãi, nơi bắt nguồn những dòng sông, suối đổ về sông Trà Khúc.
Kinh tế truyền thống của tộc người Ca Dong chủ yếu là nông nghiệp rẫy. Nông nghiệp rẫy canh tác theo kiểu luân canh luân khoảnh, tức khai phá theo chu kỳ kín, trồng trọt vụ đầu tiên, sau có thể sử dụng tiếp đến vụ hai, vụ ba, rồi bỏ hoang hóa khoảng 10-12 năm mới canh tác lại. Người Ca Dong không phát rẫy ở gần ngọn nước, đây là điều nghiêm cấm để bảo vệ nguồn nước của làng. Xưa kia mỗi gia đình có diện tích rẫy từ 7 đến 8 gùi giống. Nông lịch trồng trọt ở rẫy của người Ca Dong như sau: tháng 3, 4 phát rẫy; tháng 5, 6 đốt rẫy; tháng 7, 8, 9 trồng xen canh các loại rau củ…; tháng 10, 11, 12 thu hoạch lúa; tháng 1, 2 nghỉ ngơi ăn tết. Lúa rẫy là các giống lúa có chu kỳ từ khi gieo trồng đến khi thu hoạch khoảng 6 tháng, gồm các loại lúa như mau thế, mau hem, mau pi, mau ka diêu, mau ka xon, mau nhiên…Trong các rẫy lúa cũng như các mảnh vườn, đồng bào thường trồng bầu, bí, rau, đậu, cây có củ, đặc biệt trên rẫy trồng loại cây pho trái có hạt cơm trắng, ăn rất ngon, có giá trị như lương thực chống đói. Rẫy được chăm sóc, làm cỏ và chống thú rừng, chim chóc bằng cách rào rẫy, săn bắn, dùng bẫy, chông, nỏ, bù nhìn, đàn nước…
Từ sau năm 1975, chính quyền địa phương đã vận động người Ca Dong chuyển dần tập quán canh tác sang làm ruộng nước. Nhờ khai phá, diện tích ruộng nước dần dần tăng lên và diện tích rẫy thu hẹp vì hiệu quả không cao. Người Ca Dong hiện nay đã làm ruộng nước thuần thục, đã được chính quyền giúp đắp đập ngăn nước chảy vào các con mương để đưa nước vào ruộng. Những thửa ruộng bậc thang nói chung không rộng lắm do địa thế đất trong vùng rất hẹp. Công cụ làm ruộng có cuốc, cày, bừa. Chăm sóc lúa đã dùng phân bón và thuốc trừ sâu. Ruộng cấy hai vụ thu hoạch năng suất tương đối khá.
Bên cạnh rẫy và ruộng, người Ca Dong còn có vườn. Vườn ở đây chiếm một vị trí khá quan trọng, nhất là việc trồng cau, thu trái bán đi các nơi trong và ngoài tỉnh. Ngoài ra, vườn còn cung cấp thực phẩm, rau củ cho đồng bào, làm giảm bớt lượng thức ăn do rừng cung cấp hái lượm. Trong kinh tế sản xuất của đồng bào Ca Dong, chăn nuôi đóng vai trò quan trọng. Người ta nuôi trâu, dê, heo, gà… số lượng có khi lên đến hàng đàn đông đúc. Sản phẩm chăn nuôi được dùng vào các mục đích như cung cấp thực phẩm cho bữa ăn hàng ngày, cho các lễ thức tín ngưỡng và cho các hoạt trao đổi buôn bán. Chăn nuôi chủ yếu theo cách thả rông.
Ngoài kinh tế sản xuất nông nghiệp, người Ca Dong còn khai thác lâm thổ sản, thuỷ sản, các ngành kinh tế này đóng vai trò quan trọng, góp phần thoả mãn nhu cầu lương thực và thực phẩm của đồng bào. Sắn bắn ở đây phát triển hơn đánh cá và hái lượm. Săn bắn là một cơ hội tích lũy các sản phẩm quý như da hổ, sừng tê, nhung hươu, xương thú… để có hàng trao đổi lấy chiêng, ché và các nhu yếu phẩm. Công cụ sử dụng trong săn bắn thường là ná được làm bằng cây long rui, mũi tên làm từ nứa, lồ ô. Ná như một vật trang sức của đàn ông, người ta rất quý trọng và đặt nó ở gian giữa nơi tiếp khách của chủ nhà. Ngoài ra, người Ca Dong có nhiều loại bẫy thú như bẫy ka rấu là loại bẫy thòng lọng, thú bị vướng bẫy chân sẽ bị buộc vào và treo lên; bẫy ka rấu mun, bẫy a kíp là loại bẫy chuột; bẫy ra năk là loại mang cung … Thịt thú rừng săn được đem về chia cho xóm làng. Người đi săn giữ lại một phần thịt và đặc biệt là xương má con thú, người ta để nó ở vị trí trang trọng nơi gian giữa của nhà.
Người Ca Dong vốn có nghề dệt vải phát triển nhưng nay đã mai một. Tất cả khố váy đều mua từ những người đồng tộc Xơ Đăng hay mua từ dân tộc Hrê. Người Ca Dong rất giỏi đan lát, những chiếc gùi mà họ đan có dáng cân đối hài hòa, hoa văn đẹp. Nghề đan lát được cha mẹ truyền dạy cho con từ nhỏ đến lúc trưởng thành, là tiêu chí quan trọng của người đàn ông trước khi lập gia đình. Người Ca Dong không có nghề làm gốm, tất cả đồ gốm đều được mua về từ bên ngoài. Đồ gốm chủ yếu là ché dùng để đựng rượu cần.
Địa bàn cư trú của người Ca Dong nằm giáp giới với vùng Tây Nguyên, có nhiều đường bộ liên thông nên thường có các cuộc trao đổi hàng hoá với miền xuôi. Người Ca Dong mua các loại chiêng, ché, vải mặc, nồi đồng, buôn bán trao đổi bằng nguồn quế, loại cây hương liệu có giá trị thương phẩm cao lúc bấy giờ. Ngoài ra, các sản phẩm chăn nuôi như trâu, bò, dê được buôn bán trao đổi cho các cư dân vùng Tây Nguyên để lấy chiêng, ché.
Đơn vị cư trú cơ bản của tộc người Ca Dong là plây (làng) hay plây pla  (làng xóm). Lớn hơn đơn vị làng xóm gọi là gung (vùng), gồm nhiều làng hợp lại. Khái niệm plây hoàn chỉnh bao hàm mỗi làng có một ranh giới (bơla) nhất định, ranh giới đó có thể là những khu rừng vô chủ. Mỗi một plây bao gồm một khu dân cư tập trung với những nóc nhà (nhe) gắn với những kho thóc của các hộ gia đình. Mỗi plây có chung một máng nước để uống, nước uống rất quan trọng và là tiêu chí chọn lựa đầu tiên khi lập một làng mới. Mỗi plây có chung một nghĩa địa rừng ma (ha năng) được coi là khu rừng thiêng. Khu rừng này phải nằm ở phía dưới nguồn nước. Quan trọng hơn, mỗi plây có chung một vùng ruộng rẫy canh tác, một vùng rừng chăn nuôi và săn bắn, một đoạn sông, suối chảy quan đất làng. Làng của người Ca Dong, các ngôi nhà sàn được quy hoạch theo cùng hướng, không cắt phá nhau nên nhìn từ xa trông rất đẹp.
Dưới plây (làng) có nóc, tập hợp một vài ngôi nhà dài.  Trong mỗi nóc nhà dài có năm bảy thế hệ cùng sinh sống, đó là các tiểu gia đình trong một đại gia đình phụ hệ. Khác với nhiều cư dân Tây Nguyên và những người đồng tộc Xơ Đăng, làng của người Ca Dong không có nhà rông. Ở đây có loại hình nhà dài; mọi sinh hoạt mang tính tập thể của cộng đồng đều diễn ra ở nhà của chủ làng (k’răh plây).
Thiết chế xã hội truyền thống của người Ca Dong là một thiết chế ổn định, bền chặt. Người đứng đầu plây gọi là chủ làng. Chủ làng được cộng đồng làng chọn lựa bầu lên, là người có uy tín, nhân cách, được mọi người trong làng kính trọng, có nhiều kinh nghiệm, hiểu biết về luật tục và lao động sản xuất, có nhiều chiêng ché trong nhà, trâu bò nhiều ngoài rừng, được xem là gia đình giàu có. Vai trò của chủ làng trong cộng đồng tộc người Ca Dong rất lớn. Nhiệm vụ của chủ làng là chịu trách nhiệm chọn đất lập làng, chọn nguồn nước, chọn nguồn rẫy canh tác, là người có trách nhiệm cúng tế thần linh, đứng ra giải quyết các vụ việc tranh chấp, phân xử những việc vi phạm đến tập quán. Chủ làng đại diện cho làng mình trong việc giao tiếp với làng khác, chủ làng còn là người quyết định những cuộc chiến đấu giữa làng hoặc tiếp xúc với các đoàn buôn hay thương lái từ bên ngoài đến buôn bán. Khi dân làng thiếu ăn hay đau, ốm chủ làng phải giúp gạo lúa, heo gà cho người bị nạn và không bắt buộc thời hạn trả cũng như trả lãi. Chủ làng là người thường hay tổ chức lễ ăn trâu tạ ơn thần linh, đồng thời qua đó thể hiện sự giàu có của mình cũng như tập hợp những dòng họ trong làng để con cháu có thể biết được nhau. Phó chủ làng (jang k’răh plây) là người trực tiếp giúp việc cho chủ làng khi chủ làng đi vắng hay đau ốm. Tộc trưởng (k’răh nhê) là những người đứng đầu mỗi nóc nhà dài. Các tộc trưởng cùng hợp nhất thành hội đồng tộc trưởng (già làng). Hội đồng tộc trưởng cùng với chủ làng, phó chủ làng bàn thảo, quyết định một việc quan trọng nào đó trong làng. Thầy cúng (pơ dâu) là người đại diện trung gian giữa thần linh và con người. Thầy cúng biết rất nhiều bài hát cũng thần linh cùng với các nghi thức cúng tế. Làng Ca Dong là một cộng đồng gồm những thành viên có hay không cùng quan hệ huyết thống. Những thành viên không đồng tộc nếu gia nhập làng hay dâu, rể trong làng đều dựa trên nguyên tắc sống hòa mình vào cộng đồng làng, tự coi mình là người đồng tộc, là thành viên của làng, theo tập quán của làng. Tất cả các thành viên trong làng đều bình đẳng và cố kết nhau trong một khối cộng đồng làng thống nhất được quy định bởi luật tục.
Trong xã hội truyền thống của người Ca Dong đã có sự phân chia giàu nghèo, dựa trên lượng lúa gạo thu hoạch, chiêng, ché, trâu bò… Trong làng có ba loại người: người giàu, người đủ ăn và người nghèo, nhưng chưa thấy có sự bóc lột nhau. Làng Ca Dong là một cộng đồng bền chặt trên cơ sở tập quán truyền miệng từ đời này qua đời khác. Đó là một cộng đồng mà mọi thành viên đều một lòng một dạ mong muốn cho làng của mình ngày càng lớn nhanh như cây gạo và tồn tại mãi mãi như cây da, cây si.
 Bảng dân số và phân bổ dân số của dân tộc Ca Dong theo địa bàn
 (thời điểm 31.12.2005)
III. QUAN HỆ GIỮA CÁC TỘC NGƯỜI
Từ thời tiền sử, trên vùng đất Quảng Ngãi phần nào đã có sự hợp chủng hòa huyết giữa các nhóm Nam Đảo và nhóm Nam Á. Từ thế kỷ XV trở đi, trên vùng đất Quảng Ngãi đã có sự hợp huyết nhất định giữa người Chăm bản địa và người Kinh từ miền Bắc di cư vào, giữa người thiểu số miền núi và người Kinh đồng bằng, giữa người Kinh và nhóm người Hoa di cư từ Nam Trung Hoa đến. Giữa các dân tộc anh em đã có sự giao lưu, trao đổi từ lâu đời với nhau.
Từ ngày Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, tinh thần đoàn kết các dân tộc trên đất Quảng Ngãi càng được phát huy mạnh mẽ. Các cụ Phó mục Gia, Chánh Nhá, Phó Nía… và nhiều chiến sĩ yêu nước, cách mạng của dân tộc Cor, Hrê, Ca Dong là tiêu biểu cho tinh thần đoàn kết Kinh - Thượng, đấu tranh bất khuất, sẵn sàng xả thân cứu dân, cứu nước và lý tưởng độc lập, tự do, vì hạnh phúc chung.
Các dân tộc thiểu số Quảng Ngãi cùng nằm trong một khu vực lịch sử - dân tộc học, có chung một vận mệnh lịch sử lâu đời, đã cùng nhau tham gia vào những cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột của các triều đại phong kiến và những cuộc đấu tranh chống xâm lược. Đặc biệt, sống trong vùng thiên nhiên phong phú, đa dạng nhưng vô cùng khắc nghiệt, đồng bào các dân tộc miền núi đã xây dựng nên truyền thống đoàn kết, gắn bó cùng nhau để sinh tồn. Các mối liên hệ chặt chẽ về kinh tế, văn hoá, xã hội giữa các dân tộc đã có từ lâu đời. Nhưng mỗi tộc người đều có những phong tục tập quán và đặc điểm riêng.
Về kinh tế, quan hệ mua bán, trao đổi giữa các dân tộc thực hiện bằng nhiều hình thức, đã được xác lập từ lâu đời. Đồng bào trao đổi với nhau các công cụ lao động như dao, rựa, những sản vật từ săn bắt, hái lượm được hoặc những đặc sản như quế, trầu, cau, chè… Mối quan hệ giao lưu kinh tế đó diễn ra không chỉ trong nội bộ tộc người mà còn diễn ra giữa các tộc người cận cư, đặc biệt là với người Kinh để trao đổi, mua bán các sản phẩm nông, lâm nghiệp và các nhu yếu phẩm cần thiết cho cuộc sống của đồng bào.
Về mặt ngôn ngữ, mỗi dân tộc ở miền núi Quảng Ngãi thường không chỉ nói ngôn ngữ mẹ đẻ, mà còn biết tiếng nói các dân tộc láng giềng. Vì cùng chung hệ ngôn ngữ Môn – Khơme nên các dân tộc Hrê, Cor, Ca Dong rất dễ dàng hiểu tiếng nói của nhau.
Cho đến nay, sự giao lưu văn hoá giữa các dân tộc thiểu số đã đến mức trong các hình thức sinh hoạt văn hoá của từng tộc người thật khó phân biệt rạch ròi đâu là yếu tố bản sắc riêng của tộc người, đâu là yếu tố vay mượn. Đó là những phong tục tập quán như hội mùa, hội cồng chiêng, lễ đâm trâu hay những hình thức văn nghệ dân gian như truyện cổ, dân ca, các nhạc cụ… Các mối quan hệ giữa các dân tộc miền núi Quảng Ngãi ngày càng được củng cố và phát triển về mọi mặt, phù hợp với xu thế thời đại và phù hợp với nguyện vọng chính đáng của bà con các dân tộc miền núi trên con đường hội nhập đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.cc

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét